Công bằng mà nói máy tính đầu tiên được điều khiển bằng chương trình là Z1(1938). Máy tính này được phát triển trong năm tiếp theo, 1932, gọi là Z2; đây là máy tínhđược điều khiển hoạt động bằng chương trình với phép tính dấu chấm tĩnh. Tuy nhiên, nỗlực tại trường đại học nhằm tạo ra máy tính được ghi nhận lần đầu tiên là từ trường đại họcbang Iowa vào đầu những năm 1940. Các nhà nghiên cứu tại đại học đó đã có thể xây dựngmột máy tính điện tử chuyên dụng quy mô nhỏ. Tuy nhiên, máy tính đó chưa bao giờ hoạtđộng hoàn chỉnh. Cùng thời gian đó thiết kế hoàn chỉnh của máy tính chuyên dụng có đầy đủchức năng lập trình, là Z3, được công bố tại Đức năm 1941. Do thiếu kinh phí đã làm chothiết kế máy tính đó chưa thể triển khai được. Lịch sử ghi nhận rằng trong khi hai nỗ lực nàyđang được tiến hành thì các nhà nghiên cứu tại những nơi khác trên thế giới có cơ hội đểthu được những kinh nghiệm đầu tiên thông qua việc tham quan các phòng thí nghiệm vàcác viện đang thực hiện công việc này. Có giả thiết cho rằng chuyến thăm đầu tiên và traođổi ý tưởng như vậy đã thúc đẩy các vị khách bắt tay vào thực hiện các dự án tương tự tạiphòng thí nghiệm của họ khi trở về.Khi khái niệm về một chiếc máy tính đa dụng (general-purpose computer) đượcquan tâm, trường đại học Pennsylvania được ghi nhận là nơi đã tổ chức chế tạo bộ máy tínhENIAC (Electronic Numerical Integrator and Calculator) vào năm 1941. Đó chính là là cỗ máytính điện tử đầu được chế tạo sử dụng ống chân không. Cỗ máy ban đầu được chế tạo đểtính toán các bảng đạn đạo dùng cho pháo binh trong thế chiến thứ II. Máy tính này có khảnăng lập trình thông qua việc cài đặt bằng tay các thiết bị chuyển mạch và cắm các dây cáp.Máy tính này chạy rất chậm so với tiêu chuẩn ngày nay, với khả năng lưu trữ hạn chế và khảnăng lập trình thô sơ. Phiên bản cải tiến của ENIAC được đưa ra tại cùng trường đại học này.Bản cải tiến ENIAC, là máy tính EDVAC (Electronic Discrete Variable Automatic Computer),đây là nỗ lực cải thiện cách các chương trình được nhập vào và tìm ra cách lưu trữ dữ liệu.Cho tới năm 1952 dự án EDVAC mới hoàn thành. Lấy cảm hứng từ ý tưởng triển khai trongENIAC, các nhà nghiên cứu tại viện nghiên cứu cao cấp (Institute for Advanced Study – IAS)tại Princeton đã chế tạo ra máy IAS (năm 1946), chiếc máy này nhanh gấp 10 lần ENIAC.Vào năm 1946 trong khi dự án EDVAC đang trong giai đoạn phát triển, một dự ántương tự đã được khởi động tại đại học Cambridge. Dự án đã chế tạo một máy tính màchương trình được lưu trữ, EDSAC (Electronic Delay Storage Automatic Calculator). Năm1949, EDSAC trở thành chiếc máy tính hoàn chỉnh đầu tiên có chương trình được lưu trữ vàhoạt động trọn vẹn. Tác động của EDSAC dẫn tới một loạt các máy tính được giới thiệu tạiHavard. Loạt máy này gồm MARK I, II, và IV Hai máy tính sau giới thiệu khái niệm về việc táchbộ nhớ lệnh và bộ nhớ dữ liệu riêng biệt. Thuật ngữ Kiến trúc Havard (Havard Architecture)được đưa ra để chỉ những máy tính sử dụng bộ nhớ riêng biệt. Lưu ý ngày nay thuật ngữkiến trúc Havard được sử dụng để mô tả những máy tính tách vùng đệm cho lệnh và vùngđệm dữ liệu riêng biệt.Máy tính đa dụng thương mại đầu tiên là UNIVAC I (UNIVersal AutomaticComputer), được đưa ra thị trường vào giữa năm 1951. Nó được cải tiến hơn BINAC – máynày được chế tạo vào năm 1949. IBM đã công bố máy tính đầu tiên của họ là IBM701 vàonăm 1952. Đầu những năm 1950 đã chứng kiến sự sụt giảm trong ngành công nghiệp máytính. Năm 1964, IBM công bố dòng sản phẩm dưới tên là IBM 360 Dòng máy này bao gồmmột số mẫu có giá và hiệu năng khác nhau. Điều này dẫn tới tập đoàn DEC (DigitalEquipment Corporation) giới thiệu máy tính mini đầu tiên PDP-8. Đây là máy tính có giá giảmđáng kể. Intel giới thiệu bộ vi xử lý đầu tiên, Intel 4004 vào năm 1971. Thế giới đã chứngkiến sự ra đời của máy tính cá nhân (PC) đầu tiên năm 1977 khi dòng máy tính của Appleđược lần đầu giới thiệu. Cùng vào năm 1977 thế giới cũng chứng kiến sự ra đời máy VAX-
đang được dịch, vui lòng đợi..