Cố Cung Bắc KinhCố Cung (Imperial Palace of the Ming and Qing Dynastie dịch - Cố Cung Bắc KinhCố Cung (Imperial Palace of the Ming and Qing Dynastie Pháp làm thế nào để nói

Cố Cung Bắc KinhCố Cung (Imperial P

Cố Cung Bắc Kinh

Cố Cung (Imperial Palace of the Ming and Qing Dynasties in Beijing and Shenyang), còn có tên gọi khác là Cố Cung Minh - Thanh, Cố Cung Bắc Kinh, Cố Cung Thẩm Dương, được UNESCO đưa vào “Danh mục Di sản thế giới” năm 1987.
Theo Uỷ ban Di sản thế giới: “Tử Cấm Thành là trung tâm quyền lực tối cao của Trung Quốc trên 5 thế kỷ, là quần thể kiến trúc lớn, được cấu thành bởi sự hài hoà giữa không gian vườn và hàng ngàn gian/phòng, cùng những vật dụng sinh hoạt và sản phẩm thủ công - mỹ nghệ. Đây là bằng chứng lịch sử vô giá, phản ánh về văn minh Trung Quốc dưới thời Minh - Thanh. Năm 1987, Cố Cung Bắc Kinh được đưa vào “Danh mục Di sản thế giới”, Cố Cung Thẩm Dương là một hạng mục mở rộng, được bổ sung vào khu di sản. Hiện tại, tên gọi của di sản là Cố Cung Minh - Thanh (Cố Cung Bắc Kinh và Cố Cung Thẩm Dương). Cố Cung của triều Thanh ở Thẩm Dương được xây dựng từ năm 1625 - 1626 đến năm 1783, với tổng cộng 114 toà kiến trúc, trong đó bao gồm cả thư viện, đã được xếp hạng là văn vật cấp 1. Trước khi kinh đô được di dời về Bắc Kinh, Cố Cung Thẩm Dương là trung tâm quyền lực hoành tráng của triều đại cuối cùng (triều Thanh) thống trị Trung Quốc, minh chứng cho quá trình xác lập và xây dựng vương triều; sau đó trở thành kiến trúc hoàng cung, thuộc Cố Cung Bắc Kinh. Kiến trúc hùng vĩ này chính là bằng chứng lịch sử quan trọng phản ánh về lịch sử triều Thanh và truyền thống văn hoá của tộc Mãn cũng như của các bộ tộc khác ở phía Bắc Trung Quốc”.

Như vậy, Cố Cung Minh - Thanh đóng vai trò là Hoàng Cung của các vị đế vương hai triều Minh và Thanh từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20, đồng thời là trung tâm quyền lực quốc gia cuối cùng của Trung Quốc sau thời cổ đại, gồm Cố Cung Bắc Kinh (được UNESCO đưa vào Danh mục Di sản thế giới năm 1987) và Cố Cung Thẩm Dương (được sáp nhập vào năm 2003). Trong đó, Cố Cung Bắc Kinh, tức “Tử Cấm Thành” là Hoàng Cung của các vị đế vương hai triều Minh, Thanh. Tổng cộng có 24 vị hoàng đế đăng cơ tại đây. Cố cung nằm ở vị trí trung tâm của thành phố Bắc Kinh, do Chu Lệ, một vị hoàng đế của triều Minh cho xây dựng trong khoảng những năm 1406 – 1420. Kể từ thời điểm xây dựng đến năm 1911, Cố Cung liên tục đóng vai trò là Hoàng Cung của hai triều Minh, Thanh (Trung Quốc), kéo dài 505 năm. Tổng diện tích của Cố Cung là 72ha, hiện còn 179.700 m2 kiến trúc cổ và nền móng của các loại kiến trúc cung đình khác. Đây là một quần thể kiến trúc có quy mô hoành tráng, với vẻ đẹp lộng lẫy, nguy nga, được mệnh danh là “kiệt tác kiến trúc cung điện cổ đại bậc nhất phương Đông”.

Cố Cung Thẩm Dương, còn có tên gọi khác là Cố Cung Hậu Kim, Hoàng Cung Thịnh Kinh, ở trung tâm thành phố Thẩm Dương, đóng vai trò là cung điện của thủ lĩnh tộc người Mãn (từ phía Bắc xuống) trước khi đánh chiếm được Bắc Kinh, lập ra vương triều Thanh. Quần thể kiến trúc này do Nỗ Nhĩ Cáp Xích khởi dựng năm 1625, sau đó trở thành cung điện tạm thời và hành cung của Hoàng gia triều Thanh đến tận năm 1911, trải qua 286 năm. Tổng diện tích của Cố Cung Thẩm Dương là 12,96 ha, hiện còn 16.800 m2, với 114 toà kiến trúc cổ và nền móng của các loại kiến trúc cung đình khác. Đây là quần thể kiến trúc thể hiện rất rõ về bố cục không gian và đặc trưng kiến trúc địa phương của tộc người Mãn.
Cố Cung Minh - Thanh nói chung, Cố Cung Bắc Kinh nói riêng là nơi ngự trị của 14 vị Hoàng đế triều Minh và 10 vị Hoàng đế triều Thanh đã từng thống trị Trung Quốc, đồng thời là địa điểm diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của Trung Quốc, là dấu mốc lịch sử quan trọng, phản ánh sự phát triển của văn minh Trung Hoa trong giai đoạn Minh - Thanh. Các phương diện về kỹ thuật và nghệ thuật kiến trúc của di sản này đều có giá trị nổi bật.

Cố Cung Bắc Kinh là thành tựu đỉnh cao trong lịch sử phát triển của kinh thành cổ đại ở Trung Quốc, là quần thể kiến trúc cung điện tương đối hoàn chỉnh còn tồn tại, có quy mô vào loại bậc nhất thế giới. Đó là bằng chứng xác thực phản ánh về sự phát triển của xã hội Trung Quốc sau thời cổ đại, đặc biệt là về mặt văn hoá nghi lễ và văn hoá cung đình, đồng thời có giá trị lịch sử, văn hoá nổi bật trong lịch sử phát triển văn minh và văn hoá Trung Hoa. Từ góc độ bố cục, không gian, thiết kế kiến trúc, có thể nhận thấy, quần thể kiến trúc này đã kế thừa và phát huy được những đặc điểm ưu việt về bố cục, tính chất đăng đối qua trung tâm, nguyên tắc “điện chầu phía trước, khu nghỉ dưỡng phía sau” trong truyền thống quy hoạch đô thị và kiến trúc cung điện, thành quách, để trở thành một công trình trình mẫu mực theo quy chế xây dựng cổ đại ở Trung Quốc. Kỹ thuật và nghệ thuật kiến trúc cung điện của quần thể kiến trúc này đã đạt đến thành tựu đỉnh cao trong dạng thức kiến trúc cung đình cổ đại ở Trung Quốc và có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với kiến trúc cung đình Trung Quốc trong suốt 300 năm dưới triều Thanh. Kiến trúc tôn giáo trong cung, đặc biệt là những ngôi chùa gắn với Hoàng gia, đã kế thừa và phát huy được những nét tinh hoa của văn hoá Trung Quốc, phản ánh sinh động về quá trình giao lưu, hội nhập của các nền kiến trúc Mãn, Hán, Mông, Tạng trong suốt 14 thế kỷ. Đồng thời, còn lưu giữ được hàng triệu di vật, gồm những bộ sưu tập của Hoàng gia, dụng cụ sinh hoạt của Hoàng gia và nhiều tư liệu khác, như sách, thư pháp, tranh, bản đồ, mẫu vật… phản ánh về văn hoá cung đình và pháp luật, thể chế chính sách thời Minh - Thanh (Trung Quốc). Những di vật quý báu này cùng với quần thể kiến trúc cung điện cấu thành giá trị nổi bật của di sản.

Trong số các kiến trúc cung đình hiện tồn ở Trung Quốc, về mặt quy mô, Cố Cung Thẩm Dương chỉ xếp sau Cố Cung Bắc Kinh. Cố Cung Thẩm Dương gắn liền với quá trình khai phá và phát triển vùng Đông Bắc Trung Quốc dưới triều Thanh, có giá trị lịch sử đặc biệt quan trọng. Về cơ bản, kiến trúc cung điện trong quần thể này đã thừa hưởng được nền tảng của truyền thống kiến trúc cung đình cổ đại Trung Quốc, đồng thời cũng hấp thu những nét văn hoá đặc sắc của địa phương và của một số tộc người khác, bảo lưu được các giá trị ưu việt về mặt tạo hình và trang trí kiến trúc truyền thống Mãn. Những yếu tố này góp phần tạo nên một tổng thể kiến trúc có phong cách đặc biệt, mang những đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc Hán, Mãn, Mông và có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với kiến trúc ở khu vực này vào các giai đoạn sau. Đặc biệt là, kiến trúc cung điện ở đây thường áp dụng nguyên tắc “Bát kỳ” (một hình thức tổ chức xã hội của người Mãn) vào việc tổ chức bố cục mặt bằng kiến trúc - một đặc trưng kiến trúc mà không một cung điện nào khác trên thế giới có được. Do vây, từ phương diện bảo tồn cho tới phát triển tính đa dạng của văn hoá kiến trúc đều mang giá trị nổi bật.

Di sản thoả mãn các tiêu chí sau:

- (I): Cố Cung là một kiệt tác của lịch sử phát triển kiến trúc cung điện Trung Quốc;

- (II): Quần thể kiến trúc Cung Điện Cố Cung, đặc biệt là Cố Cung Thẩm Dương, tiêu biểu cho kiến trúc truyền thống thế kỷ XVII - XVIII và là thành quả của sự giao lưu, hội tụ từ nhiều nền kiến trúc cung điện khác nhau của Trung Quốc;

- (III): Cố Cung là bằng chứng xác thực của nền văn minh Trung Quốc dưới thời Minh - Thanh, hiện còn bảo tồn được nguyên vẹn những giá về mặt cảnh quan, kiến trúc, trang trí, nghệ thuật đương thời và còn là cơ sở quan trọng minh chứng cho tập tục, truyền thống Shaman giáo của tộc Mãn từ nhiều thế kỷ trước đến nay;

- (IV): Cố Cung là quần thể kiến trúc cung điện nổi bật nhất của Trung Quốc, bảo tồn được những vật chứng xác thực, phản ánh về sự phát triển rực rỡ của chính quyền hoàng gia thời Minh - Thanh, đồng thời còn minh chứng cho truyền thống và lịch sử diễn biến kiến trúc thế kỷ XVII - XVIII của tộc Mãn.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Pháp) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Cố Cung Bắc KinhCố Cung (Palais impérial des Dynasties Ming et Qing à Beijing et à Shenyang), còn có tên GOI Khac là Cố Cung Minh - Thanh, Cố Cung Bắc Kinh, Cố Cung Thẩm Dương, được UNESCO đưa vào "Danh mục Di sản thế gi OI"năm 1987.Theo Uỷ ban Di sản thế giới: "Tử Cấm Thành là trung tâm quyền Laplante tối cao của Trung Quốc trên 5 thế kỷ, là quần thể kiến trúc lớn, được cấu thành Boi sự hài hoà giữa không gian vườn và hàng ngàn gian/phòng , cùng những vật dụng sinh hoạt và sản phẩm thủ công - mỹ Nghe. Đây là bằng chứng lịch sử vô giá, phản Anh về văn minh Trung Quốc dưới thời Minh - Thanh. Năm 1987, Cố Cung Bắc Kinh được đưa vào « Danh mục Di sản thế giới », Cố Cung Thẩm Dương là một hạng mục mở rộng, được bổ sung vào khu di sản. Hiện Tai, tên GOI của di sản là Cố Cung Minh - Thanh (Cố Cung Bắc Kinh và Cố Cung Thẩm Dương). Cung Cố của triều Thanh ở Thẩm Dương được xây dựng từ năm 1625-1626 đến năm 1783, với tổng cộng 114 toà kiến trúc, trong Đỗ bao GOM cả thư viện đã được xếp hạng là văn vật cấp 1. Trước khi kinh đô được di dời về Bắc Kinh, Cố Cung Thẩm Dương là trung tâm quyền Laplante hoành tráng của triều đại cuối cùng (Thanh triều) thống trị Trung Quốc, minh chứng cho quá trình xác lập và xây dựng vương t riều ; sau Đỗ trở thành kiến trúc hoàng cung, Thuoc Cố Cung Bắc Kinh. Kiến trúc hùng vĩ này chính là bằng chứng lịch sử quan trọng phản Anh về lịch sử triều Thanh và truyền thống văn hoá của tộc Mãn Cung như của các bộ tộc Khac ở phía Bắc Trung Quốc ».Như vậy, Cố Cung Minh - Thanh đóng vai trò là Hoàng Cung của các vị đế vương hai triều Minh và Thanh từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20, đồng thời là trung tâm quyền Laplante quốc gia cuối cùng của Trung Quốc sau thời cổ djoce Ại, GOM Cố Cung Bắc Kinh (được UNESCO đưa vào Danh mục Di sản thế giới năm 1987) và Cố Cung Thẩm Dương (được sáp nhập vào năm 2003). Trong Đỗ, Cố Cung Bắc Kinh, tức « Tử Cấm Thành » là Hoàng Cung của các vị đế vương hai triều Minh, Thanh. Tổng cộng có 24 vị hoàng đế đăng cơ Tai đây. Cố cung nằm ở vị trí trung tâm của thành phố Bắc Kinh, do Chu Lệ, một vị hoàng đế của triều Minh cho xây dựng trong khoảng những năm 1406 – 1420. Kể từ thời điểm xây dựng đến năm 1911, Cung Cố liên Rong đóng vai trò là Hoàng Cung của hai triều Minh, Thanh (Trung Quốc), kéo dài 505 năm. Tổng Yann tích của Cố Cung là 72ha, hiện còn 179.700 m2 kiến trúc cổ và nền móng của các loại kiến trúc cung đình khác. Đây là một quần thể kiến trúc có quy mô hoành tráng, với vẻ đẹp lộng lẫy, nga nguy được mệnh danh là « kiệt tác kiến trúc cung điện cổ đại bậc nhất phương Đông ».Cố Cung Thẩm Dương, còn có tên GOI Khac là Cố Cung Hậu Kim, Hoàng Cung Yolande Kinh, ở trung tâm thành phố Thẩm Dương, đóng vai trò là cung điện của thủ lĩnh tộc người Mãn (từ phía Bắc xuống) trước khi đánh chiế m được Bắc Kinh, lập ra vương triều Thanh. Quần thể kiến trúc này do Nỗ Nhĩ Cáp Xích khởi dựng năm 1625, sau Đỗ trở thành cung điện tạm thời và hành cung của Hoàng gia triều Thanh đến tận năm 1911, trải qua năm 286. Tổng Yann tích của Cố Cung Thẩm Dương là 12,96 hectares, hiện còn 16.800 m2, với 114 toà kiến trúc cổ và nền móng của các loại kiến trúc cung đình khác. Đây là quần thể kiến trúc thể hiện rat y¼Ñ2 về bố cục không gian và đặc trưng kiến trúc địa phương của tộc người Mãn.Cố Cung Minh - Thanh nói chung, Cố Cung Bắc Kinh nói riêng là nơi ngự trị của 14 vị Hoàng đế triều Minh và 10 vị Hoàng đế triều Thanh đã tá thống trị Trung Quốc, đồng thời là địa điểm diễn ra Nhieu sự kiện l Ịch sử trọng đại của Trung Quốc, là dấu mốc lịch sử quan trọng, phản Anh sự Phat Tan của văn minh Trung Hoa trong giai đoạn Minh - Thanh. CáC phương Yann về su thuật và nghệ thuật kiến trúc của di sản này đều có giá trị nổi bat.Cố Cung Bắc Kinh là thành tựu đỉnh cao trong lịch sử Phat Tan của kinh thành cổ đại ở Trung Quốc, là quần thể kiến trúc cung điện Tuong đối hoàn ‰NH còn tồn Tai, có quy mô vào loại bậc nhất thế giới. Đó là bằng chứng xác thực phản Anh về sự Phat Tan của xã hội Trung Quốc sau thời cổ đại, đặc biệt là về mặt văn hoá nghi Laplante và văn hoá cung đình, đồng thời có giá trị lịch sử , văn hoá nổi bat trong lịch sử Phat Tan văn minh và văn hoá Trung Hoa. Từ góc độ bố cục, không gian, thiết kế kiến trúc, có thể nhận dix quần thể kiến trúc này đã kế thừa và Phat được huy những đặc điểm ưu việt về bố cục, tính chất đăng đối qua trung tâm , nguyên tắc « điện chầu phía trước, khu nghỉ dưỡng phía sau » trong truyền thống quy hoạch đô thị và kiến trúc cung điện, quách thành, để trở thành một công trình trình mẫu mực theo quy chế xây dựng cổ đại ở Tr ung Quốc. Su thuật và nghệ thuật kiến trúc cung điện của quần thể kiến trúc này đã đạt đến thành tựu đỉnh cao trong dạng thức kiến trúc cung đình cổ đại ở Trung Quốc và có sự ảnh fayçel mimouni mẽ đối với kiến trúc cung đìn h Trung Quốc trong suốt 300 năm dưới triều Thanh. Kiến trúc tôn giáo trong cung, đặc biệt là những ngôi chùa gắn với Hoàng gia, đã kế thừa và được huy de Phat những nét tinh hoa của văn hoá Trung Quốc, phản Anh sinh động về quá trình giao lưu , hội nhập của các nền kiến trúc Mãn, Hán, Mông, Tạng trong suốt 14 thế kỷ. Đồng thời, còn lưu giữ được hàng triệu di vật, GOM những bộ sưu tập của Hoàng gia, dụng cụ sinh hoạt của Hoàng gia và Nhieu tư liệu Khac, như sách, thư pháp, tranh, bản đồ, mẫu vật... phản Anh về văn hoá cung đì NH và pháp luật, thể chế chính sách thời Minh - Thanh (Trung Quốc). Những di vật quý báu này cùng với quần thể kiến trúc cung điện cấu thành giá trị nổi bat của di sản.Trong số các kiến trúc cung đình hiện tồn ở Trung Quốc, về mặt quy mô, Cố Cung Thẩm Dương chỉ xếp sau Cố Cung Bắc Kinh. Cố Cung Thẩm Dương gắn liền với quá trình khai phá và Phat Tan vùng Đông Bắc Trung Quốc dưới triều Thanh, có giá trị lịch sử đặc biệt quan trọng. Về cơ bản, kiến trúc cung điện trong quần thể này đã thừa fayçel được nền tảng của truyền thống kiến trúc cung đình cổ đại Trung Quốc, đồng thời Cung hấp thu những nét văn hoá đặc solivaret của địa phương và của một số tộc người khác, bảo lưu được các giá trị ưu việt về mặt tạo hình và trang trí kiến trúc truyền thống Mãn. Những yếu tố này góp phần tạo nên một tổng thể kiến trúc có phong cách đặc biệt, mang những đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc Hán, Mãn, Mông và có ảnh fayçel mimouni mẽ đối với kiến trúc ở khu vực này vào các gia J'ai đoạn sau. Đặc biệt là, kiến trúc cung điện ở đây thường áp dụng nguyên tắc « Bát kỳ » (một hình thức tổ chức xã hội của người Mãn) vào việc tổ chức bố cục mặt bằng kiến trúc - một đặc trưng kiến trúc mà không một cung điệ n nào khác trên thế giới có được. Faire vây, từ phương Yann bảo tồn cho tới Phat Tan tính đa dạng của văn hoá kiến trúc đều mang giá trị nổi bat.Di sản thoả mãn các tiêu chí sau :-(I): Cố Cung là một kiệt tác của lịch sử Phat Tan kiến trúc cung điện Trung Quốc ;-(II): Quần thể kiến trúc Cung Điện Cố Cung, đặc biệt là Cố Cung Thẩm Dương, tiêu biểu cho kiến trúc truyền thống thế kỷ XVII - XVIII và là thành quả của sự giao lưu, hội tụ từ Nhieu nền kiến trúc cung điện k Hác nhau của Trung Quốc ;-(III): Cố Cung là bằng chứng xác thực của nền văn minh Trung Quốc dưới thời Minh - Thanh, hiện còn bảo tồn được nguyên vẹn những giá về mặt cảnh quan, kiến trúc, trang trí nghệ thuật đương thời và còn là cơ sở quan trọng minh chứng cho tập Rong, truyền thống chaman giáo của tộc Mãn từ Nhieu thế kỷ trước đến nay ;-(IV): Cố Cung là quần thể kiến trúc cung điện nổi bat nhất của Trung Quốc, bảo tồn được những vật chứng xác thực, phản Anh về sự Phat Tan rực rỡ của chính quyền hoàng gia thời Minh - Thanh, đồng thời còn m INH chứng cho truyền thống và lịch sử diễn biến kiến trúc thế kỷ XVII - XVIII của tộc Mãn.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Pháp) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Cố Cung Bắc Kinh

Cố Cung (Imperial Palace of the Ming and Qing Dynasties in Beijing and Shenyang), còn có tên gọi khác là Cố Cung Minh - Thanh, Cố Cung Bắc Kinh, Cố Cung Thẩm Dương, được UNESCO đưa vào “Danh mục Di sản thế giới” năm 1987.
Theo Uỷ ban Di sản thế giới: “Tử Cấm Thành là trung tâm quyền lực tối cao của Trung Quốc trên 5 thế kỷ, là quần thể kiến trúc lớn, được cấu thành bởi sự hài hoà giữa không gian vườn và hàng ngàn gian/phòng, cùng những vật dụng sinh hoạt và sản phẩm thủ công - mỹ nghệ. Đây là bằng chứng lịch sử vô giá, phản ánh về văn minh Trung Quốc dưới thời Minh - Thanh. Năm 1987, Cố Cung Bắc Kinh được đưa vào “Danh mục Di sản thế giới”, Cố Cung Thẩm Dương là một hạng mục mở rộng, được bổ sung vào khu di sản. Hiện tại, tên gọi của di sản là Cố Cung Minh - Thanh (Cố Cung Bắc Kinh và Cố Cung Thẩm Dương). Cố Cung của triều Thanh ở Thẩm Dương được xây dựng từ năm 1625 - 1626 đến năm 1783, với tổng cộng 114 toà kiến trúc, trong đó bao gồm cả thư viện, đã được xếp hạng là văn vật cấp 1. Trước khi kinh đô được di dời về Bắc Kinh, Cố Cung Thẩm Dương là trung tâm quyền lực hoành tráng của triều đại cuối cùng (triều Thanh) thống trị Trung Quốc, minh chứng cho quá trình xác lập và xây dựng vương triều; sau đó trở thành kiến trúc hoàng cung, thuộc Cố Cung Bắc Kinh. Kiến trúc hùng vĩ này chính là bằng chứng lịch sử quan trọng phản ánh về lịch sử triều Thanh và truyền thống văn hoá của tộc Mãn cũng như của các bộ tộc khác ở phía Bắc Trung Quốc”.

Như vậy, Cố Cung Minh - Thanh đóng vai trò là Hoàng Cung của các vị đế vương hai triều Minh và Thanh từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20, đồng thời là trung tâm quyền lực quốc gia cuối cùng của Trung Quốc sau thời cổ đại, gồm Cố Cung Bắc Kinh (được UNESCO đưa vào Danh mục Di sản thế giới năm 1987) và Cố Cung Thẩm Dương (được sáp nhập vào năm 2003). Trong đó, Cố Cung Bắc Kinh, tức “Tử Cấm Thành” là Hoàng Cung của các vị đế vương hai triều Minh, Thanh. Tổng cộng có 24 vị hoàng đế đăng cơ tại đây. Cố cung nằm ở vị trí trung tâm của thành phố Bắc Kinh, do Chu Lệ, một vị hoàng đế của triều Minh cho xây dựng trong khoảng những năm 1406 – 1420. Kể từ thời điểm xây dựng đến năm 1911, Cố Cung liên tục đóng vai trò là Hoàng Cung của hai triều Minh, Thanh (Trung Quốc), kéo dài 505 năm. Tổng diện tích của Cố Cung là 72ha, hiện còn 179.700 m2 kiến trúc cổ và nền móng của các loại kiến trúc cung đình khác. Đây là một quần thể kiến trúc có quy mô hoành tráng, với vẻ đẹp lộng lẫy, nguy nga, được mệnh danh là “kiệt tác kiến trúc cung điện cổ đại bậc nhất phương Đông”.

Cố Cung Thẩm Dương, còn có tên gọi khác là Cố Cung Hậu Kim, Hoàng Cung Thịnh Kinh, ở trung tâm thành phố Thẩm Dương, đóng vai trò là cung điện của thủ lĩnh tộc người Mãn (từ phía Bắc xuống) trước khi đánh chiếm được Bắc Kinh, lập ra vương triều Thanh. Quần thể kiến trúc này do Nỗ Nhĩ Cáp Xích khởi dựng năm 1625, sau đó trở thành cung điện tạm thời và hành cung của Hoàng gia triều Thanh đến tận năm 1911, trải qua 286 năm. Tổng diện tích của Cố Cung Thẩm Dương là 12,96 ha, hiện còn 16.800 m2, với 114 toà kiến trúc cổ và nền móng của các loại kiến trúc cung đình khác. Đây là quần thể kiến trúc thể hiện rất rõ về bố cục không gian và đặc trưng kiến trúc địa phương của tộc người Mãn.
Cố Cung Minh - Thanh nói chung, Cố Cung Bắc Kinh nói riêng là nơi ngự trị của 14 vị Hoàng đế triều Minh và 10 vị Hoàng đế triều Thanh đã từng thống trị Trung Quốc, đồng thời là địa điểm diễn ra nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của Trung Quốc, là dấu mốc lịch sử quan trọng, phản ánh sự phát triển của văn minh Trung Hoa trong giai đoạn Minh - Thanh. Các phương diện về kỹ thuật và nghệ thuật kiến trúc của di sản này đều có giá trị nổi bật.

Cố Cung Bắc Kinh là thành tựu đỉnh cao trong lịch sử phát triển của kinh thành cổ đại ở Trung Quốc, là quần thể kiến trúc cung điện tương đối hoàn chỉnh còn tồn tại, có quy mô vào loại bậc nhất thế giới. Đó là bằng chứng xác thực phản ánh về sự phát triển của xã hội Trung Quốc sau thời cổ đại, đặc biệt là về mặt văn hoá nghi lễ và văn hoá cung đình, đồng thời có giá trị lịch sử, văn hoá nổi bật trong lịch sử phát triển văn minh và văn hoá Trung Hoa. Từ góc độ bố cục, không gian, thiết kế kiến trúc, có thể nhận thấy, quần thể kiến trúc này đã kế thừa và phát huy được những đặc điểm ưu việt về bố cục, tính chất đăng đối qua trung tâm, nguyên tắc “điện chầu phía trước, khu nghỉ dưỡng phía sau” trong truyền thống quy hoạch đô thị và kiến trúc cung điện, thành quách, để trở thành một công trình trình mẫu mực theo quy chế xây dựng cổ đại ở Trung Quốc. Kỹ thuật và nghệ thuật kiến trúc cung điện của quần thể kiến trúc này đã đạt đến thành tựu đỉnh cao trong dạng thức kiến trúc cung đình cổ đại ở Trung Quốc và có sự ảnh hưởng mạnh mẽ đối với kiến trúc cung đình Trung Quốc trong suốt 300 năm dưới triều Thanh. Kiến trúc tôn giáo trong cung, đặc biệt là những ngôi chùa gắn với Hoàng gia, đã kế thừa và phát huy được những nét tinh hoa của văn hoá Trung Quốc, phản ánh sinh động về quá trình giao lưu, hội nhập của các nền kiến trúc Mãn, Hán, Mông, Tạng trong suốt 14 thế kỷ. Đồng thời, còn lưu giữ được hàng triệu di vật, gồm những bộ sưu tập của Hoàng gia, dụng cụ sinh hoạt của Hoàng gia và nhiều tư liệu khác, như sách, thư pháp, tranh, bản đồ, mẫu vật… phản ánh về văn hoá cung đình và pháp luật, thể chế chính sách thời Minh - Thanh (Trung Quốc). Những di vật quý báu này cùng với quần thể kiến trúc cung điện cấu thành giá trị nổi bật của di sản.

Trong số các kiến trúc cung đình hiện tồn ở Trung Quốc, về mặt quy mô, Cố Cung Thẩm Dương chỉ xếp sau Cố Cung Bắc Kinh. Cố Cung Thẩm Dương gắn liền với quá trình khai phá và phát triển vùng Đông Bắc Trung Quốc dưới triều Thanh, có giá trị lịch sử đặc biệt quan trọng. Về cơ bản, kiến trúc cung điện trong quần thể này đã thừa hưởng được nền tảng của truyền thống kiến trúc cung đình cổ đại Trung Quốc, đồng thời cũng hấp thu những nét văn hoá đặc sắc của địa phương và của một số tộc người khác, bảo lưu được các giá trị ưu việt về mặt tạo hình và trang trí kiến trúc truyền thống Mãn. Những yếu tố này góp phần tạo nên một tổng thể kiến trúc có phong cách đặc biệt, mang những đặc trưng của nghệ thuật kiến trúc Hán, Mãn, Mông và có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với kiến trúc ở khu vực này vào các giai đoạn sau. Đặc biệt là, kiến trúc cung điện ở đây thường áp dụng nguyên tắc “Bát kỳ” (một hình thức tổ chức xã hội của người Mãn) vào việc tổ chức bố cục mặt bằng kiến trúc - một đặc trưng kiến trúc mà không một cung điện nào khác trên thế giới có được. Do vây, từ phương diện bảo tồn cho tới phát triển tính đa dạng của văn hoá kiến trúc đều mang giá trị nổi bật.

Di sản thoả mãn các tiêu chí sau:

- (I): Cố Cung là một kiệt tác của lịch sử phát triển kiến trúc cung điện Trung Quốc;

- (II): Quần thể kiến trúc Cung Điện Cố Cung, đặc biệt là Cố Cung Thẩm Dương, tiêu biểu cho kiến trúc truyền thống thế kỷ XVII - XVIII và là thành quả của sự giao lưu, hội tụ từ nhiều nền kiến trúc cung điện khác nhau của Trung Quốc;

- (III): Cố Cung là bằng chứng xác thực của nền văn minh Trung Quốc dưới thời Minh - Thanh, hiện còn bảo tồn được nguyên vẹn những giá về mặt cảnh quan, kiến trúc, trang trí, nghệ thuật đương thời và còn là cơ sở quan trọng minh chứng cho tập tục, truyền thống Shaman giáo của tộc Mãn từ nhiều thế kỷ trước đến nay;

- (IV): Cố Cung là quần thể kiến trúc cung điện nổi bật nhất của Trung Quốc, bảo tồn được những vật chứng xác thực, phản ánh về sự phát triển rực rỡ của chính quyền hoàng gia thời Minh - Thanh, đồng thời còn minh chứng cho truyền thống và lịch sử diễn biến kiến trúc thế kỷ XVII - XVIII của tộc Mãn.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Pháp) 3:[Sao chép]
Sao chép!
C ố Cung b ắ c Kinh

c ố Cung (Imperial Palace of the Ming and Qing Dynasties in Beijing and Shenyang), à C C C C O N L ó t ê n g ọ I KH, ố Cung Minh - Thanh, c ố Cung b ắ c Kinh, c ố Cung th ẩ m d ư ơ ng, affaire C ư ợ UNESCO étaient ư a V à O "Danh m ụ C di s ả n th ế gi ớ I" N - M 1987.
Theo u ỷ Ban Di s ả n - th ế gi ớ I: "t ử c ấ m th à NH l à Trung t - M Quy ề N L ự c t I c a ố Cao ủ Trung qu ố ê C tr n 5 th ế k ỷ,L à n - ầ th ể Ki ế n tr de l ớ N, affaire C ư ợ c ấ U, th - NH - B ở I S ự h à I Ho à gi ữ a Kh ô ng Gian V ư ờ n V - H à ng ng à n GIAN / pH ò ng, c più ng NH ữ ng V ậ t d ụ ng SINH ho ạ T V às ả n pH ẩ m e c ủ côte NG - M ỹ mutation ệ. Đ â y L - B ằ ng ch ứ ng l ị ch s ử V ô gi Banka, pH ả N, NH - V ề V - n - ố C Minh est Trung d ư ớ I th ờ I - Thanh Minh. N - M de 1987, c ố Cung B C C ắ Kinh étaient ư ợ étaient ư a V à O "Danh m ụ C di s ả n th ế gi ớ I",C ố Cung th ẩ M d ư ơ ng l à m ộ t H ạ ng m ụ C M ở R ộ ng, étaient ư ợ c b ổ Sung V à O Khu di s ả n. Salut ệ n t ạ I, T, n g ọ I c A S ủ di ả N L - C ố Cung Minh - Thanh (c ố Cung b ắ c Kinh V à c ố Cung th ẩ M d ư ơ ng). C ố Cung c ủ a tri ề u Thanh ở th ẩ M d ư ơ ng étaient ư ợ C X - y d ự ng t ừ n - M 1625 - 1626 étaient ế n - M 1783, V ớ I T ổ ng c ộ ng 114 to à Ki ế n tr, C, Trong étaient ó violence g M c ồ ả th ư VI ệ N,Affaires étaient ư São ợ C X ế P H ạ ng L - V - n V ậ T c ấ p 1. Tr ư ớ C khi kinh affaires étaient ư Côte ợ C di d ờ I V ề b ắ c Kinh, c ố Cung th ẩ M d ư ơ ng l à Trung t - M Quy ề N L ự Ho - C NH tr, Ng c ủ a tri ề u étaient ạ Cu ố I c i più Ng (tri ề u Thanh) th ố ng tr ị Trung qu ố C, ch ứ ng Cho Minh est tr ≤ NH - X - a - C de l ậ p V - X - y d ự ng V ư ơ ng tri ề U; SAU étaient ó tr ở th - NH - Ki ế n tr ú C Ho à ng cung, Thu ộ C C C B ố Cung ắ Kinh.Ki ế n tr C H ú più ng V ĩ n - CH, NH - y l b ằ ng ch ứ ng l ị ch s ử droits de l'homme tr ọ ng de pH ả N, NH - V ề l ị ch s ử tri ề u Thanh V à truy ề n - th ố ng v - N C ho. ủ a t ộ São N C C M ũ ng NH ư C C C B ộ ủ a - t ộ Kh - C C A B C ở pH, ắ Trung qu ố C ".

NH - ư V ậ y, c ố Cung Thanh Minh - étaient ó ng vai tr ∫ l à Ho - NG Cung ủ C C C a, V ị étaient ế V ư ơ ng de Hai tri ề U Minh V à Thanh t ừ th ế k ỷ 15 étaient ế n th ế k ỷ 20,Affaire ồ ng th ờ I l à Trung t - M Quy ề N L ự C - ố C Gia Cu ố I C C a più ng ủ Trung qu ố C SAU th ờ I c ổ étaient ạ I, g ố ồ m C C B ắ Cung Kinh (affaire C ư ợ UNESCO étaient ư a V à O Danh m ụ C di s ả n th ế gi ớ I N - M de 1987) v - C ố Cung th ẩ M d ư ơ Ng (affaire C - NH ư ợ S P ậ p V à O N - M 2003). Trong étaient ó, c ố Cung b ắ C Kinh, t ứ C "t ử c ấ m - th à NH" l à Ho à ng Cung ủ C C C a, V ị étaient ế V ư ơ ng de Hai tri ề U Minh, Thanh.T ổ ng ng, c ộ C 24 V ị Ho à ng étaient ế étaient montană ng ơ ạ c t i Affaire â y. C ố cung n ằ m ở V ị tr - Trung t - m c ủ a th à NH - PH ố b ắ c Kinh, do Chu l ệ, m ộ T V ị Ho à ng étaient ế c ủ a tri ề U Minh Cho X - y d ự ng Trong kho ả ng NH ữ ng n - M 1406 - 1420. K ể t ừ th ờ I étaient I ể m x - y d ự ng étaient ế n - M 1911, c ố Cung Li ê ụ c n t étaient ó ng vai tr ∫ l à Ho à ng Cung c ủ a Hai tri ề U Minh, Thanh (Trung qu ố c), K - O D à I 505 n - M.T ổ ng di ệ n t A C C - CH ủ ố Cung l à 72ha, salut ệ n c o n 179.700 m2 Ki ế n tr, C C ổ V à n ề n m ó ng ủ C C C a - lo ạ i ki ế n tr de cung étaient ≤ NH Kh. C) Đ â y l à m ộ t - ầ n - th ể ki sú ế n tr C C M ó Quy côte Ho - NH - TR, Ng, V ớ I V ẻ étaient ẹ p l ộ ng l ẫ y, Nguy Nga, affaire C ư ợ m ệ NH Danh l "ki ệ vis - à - vis t t A C Ki ế n tr de cung étaient I ệ n c ổ étaient ạ I b ậ C NH ấ t pH ư ơ ng Đ ô ng."

c ố Cung th ẩ M d ư ơ ng, à C C C C O N L ó t ê n g ọ I Kh - ố Cung h ậ u Kim,Ho - NG Cung th ị NH Kinh, ở Trung t - M - NH - PH - ố th ẩ M d ư ơ ng, affaire ó ng vai tr ∫ l à cung étaient I ệ n c a l e ủ ủ ĩ NH - t ộ C ng ư ờ I M ≥ n (ắ ừ t a b PH - C Xu ố ng) ắ C B tr ư ớ C khi étaient, NH - Chi ế m étaient ư ợ c Kinh, l ậ P ra V ư ơ ng tri ề u Thanh. Qu ầ n - th ể Ki ế n tr de n - y - NH - n ỗ ĩ C - X - p ch Kh ở I d ự ng n - M 1625, SAU étaient ó tr ở th - NH cung ệ étaient i n t e ạ m ờ I V - H - C NH cung ủ a ho à ng Gia tri ề u Thanh étaient ế n t ậ n - M, 1911Tr ả I qua 286 n - M. T ổ ng di ệ n t A C C - CH ủ ố Cung th ẩ M d ư ơ ng l à 12,96 ha, salut ệ n c o n 16.800 m2, V ớ I 114 to à Ki ế n tr, C C ổ V à n ề n m ó ng ủ C C C a - lo ạ i ki ế n tr de cung étaient ≤ NH Kh - C. Đ â y vis - à - vis - ầ n e l ể Ki ế n tr de th ể Hi ệ n R ấ T R õ V ề B C C ố ụ Kh ô ng Gian V à première ặ C tr ư ng Ki ế n tr de première ị a pH ư ơ ng ủ c a t ộ C ng ư ờ I M ≥ n
c ố Cung Thanh Minh - N Terrón I Chung,C ố Cung b ắ c Kinh n Terrón i Ri ê ng l à n ơ I ng ự tr ị c ủ a 14 V ị Ho à ng étaient ế tri ề U Minh V à 10 V ị Ho à ng étaient ế tri ề u Thanh étaient São t ừ ng th ố ng tr ị Trung qu ố c, étaient ồ ng th ờ I l a i ể étaient ị vis - à - vis des affaires m di ễ n ra nhi ề U S ự Ki ệ N L ị ch s ử tr ọ ng étaient ạ I c ủ a Trung qu ố C, l ấ vis - à - vis d u M ố c de l ị ch s ử droits de l'homme tr ọ ng, pH ả N, NH - S ự pH - t - tri ể n a V - N C ủ Minh est Trung Hoa Trong giai affaire o ạ n - Thanh Minh.C - C pH ư ơ ng di ệ n V ề k ỹ Thu ậ T V à mutation ệ Thu ậ t ki ế n tr, C C ủ a di s ả n à y étaient ề U C ó gi, tr ị n ổ I b ậ t)

c ố Cung b ắ c Kinh l à th à NH - t ự u étaient ỉ NH Cao Trong l ị ch s ử pH - t - tri ể n c ủ a kinh th - NH - C ổ étaient ạ I ở Trung qu ố C, 1 à n - ầ th ể Ki ế n tr de cung ệ étaient i n t ư ơ ng étaient ố I Ho - N - CH ỉ NH - c o n t ồ ạ i n t, C, Quy m côte V à o lo ạ I b ậ C NH ấ t th ế gi ớ I.Đ ó L - B ằ ng ch ứ ng X - c Th ự C pH ả N, NH - V ề s ự pH - t - tri ể N C H I ủ a x São ộ Trung qu ố C SAU th ờ I c ổ étaient ạ I, affaire C ặ Bi ệ T L - V ề m ặ T V - N - ho, nghi l ễ V - V - N, Ho - cung étaient ≤ NH, étaient ồ ng th ờ I c ó gi, tr ị l ị ch s ử, V - N, n ổ Ho I b ậ t Trong l ị ch s ử pH - t - tri ể n V - V - V - N N Minh est Ho - Trung Hoa. T ừ G A B C C étaient ộ ố ụ C, Kh ô ng Gian, Thi ế t k ế Ki ế n tr, C, C, e ể NH ậ n - th ấ y,- ầ n - th ể Ki ế n tr de n à y étaient São k ế th ừ a V à pH - t étaient ư être ợ C NH ữ ng étaient ặ C étaient I ể m ư u vi ệ T V ề b ố ụ C C, t - NH - CH ấ t affaires étaient licență ng ố I qua Trung T, m, n Nguy ê t ắ C "étaient I ệ N CH ầ u pH - a tr ư ớ C, Khu mutation ỉ d ư ỡ ng de pH, a SAU" Trong truy ề n - th ố ng Quy ho ạ ch étaient ô th ị V à Ki ế n tr ú C cung étaient I ệ N, N - th - NH -, CH, étaient ể tr ở th - NH - M ộ T c ô ng tr ≤ NH NH tr ≤ m ẫ u M ự C Theo Quy ch ế X - y d ự ng c ổ étaient ạ I ở Trung qu ố c.K ỹ Thu ậ T V à mutation ệ Thu ậ t ki ế n tr de cung étaient I ệ n c ủ a - ầ n th ể Ki ế n tr de n à y étaient São étaient ạ T étaient ế n e à NH - t ự u étaient ỉ NH Cao Trong d ạ ng th ứ C Ki ế n tr de cung étaient ≤ NH - C ổ étaient ạ I ở Trung qu ố C v - C NH, S ự ả ư ở ng H M M ạ NH ẽ étaient ố I V ớ i ki ế n tr de cung étaient si - C NH Trung ố Trong su ố t 300 n - M d ư ớ I tri ề u Thanh. Ki ế n tr, c t ô N, o Trong gi cung, affaire C ặ Bi ệ T L - NH ữ ng ng ô I ch più a g ắ n V ớ I Ho à ng GIA,Affaire São k ế th ừ a V à pH - t étaient ư être ợ C NH ữ ng n - t Tinh Hoa ủ V - N C A Ho - C - ố Trung, pH ả N, NH - SINH étaient ộ ng V ề qu'Banka tr ≤ NH Giao l ư U, h ộ I NH ậ P ủ C C a, c n ề n Ki ế n tr de m - N, N - H, N, m côte ng, t ạ ng Trong Su - 14 ố t th ế k ỷ. Đ ồ ng th ờ I, c o n l ư u gi ữ étaient ư ợ C H à ng tri ệ u di V ậ T, g ồ m - NH ữ ng b ộ s ư u t ậ p c ho ủ a à d ụ ng ng GIA, c ụ SINH ho ạ T c ủ a ho à ng Gia V à nhi ề u t ư Li ệ u KH, C, S, NH ư CH, th ư pH, P,TRANH, b ồ étaient ả N, m ẫ U V ậ t...Le pH de ả N, NH - V ề V - N ho, cung étaient ≤ NH V à pH, p lu ậ T, th ể ch ế ch - NH - CH ờ i s e - Thanh Minh (Trung qu ố c). NH - ữ ng di V ậ t - je B, U n à y C più ng V ớ I - ầ n th ể Ki ế n tr de cung étaient I ệ n c U, th - NH ấ gi, tr ị n ổ I b ậ T c ủ a di s ả n

Trong s ố C - c ki ế n tr de cung étaient ≤ NH - hi ệ n t ồ n ở Trung qu ố C, V ề m ặ t Quy m côte, c ố Cung th ẩ M d ư ơ ng ch ỉ X ế P SAU c ố Cung b ắ c Kinh.C ố Cung th ẩ M d ư ơ ng / g ắ n Li ề n V ớ I - Banka tr ≤ NH Khai pH Banka V à pH - t - tri ể n V più ng Đ ô ng B C - C ắ Trung ố d ư ớ I tri ề u Thanh, C, gi, tr ị l ị ch s ử étaient ặ C Bi ệ t droits de l'homme tr ọ ng. V ề c ơ b ả N, Ki ế n tr de cung étaient I ệ n Trong qu'ầ n th ể n à y étaient São th ừ a ở ng h ư étaient ư ợ C N ề n t c ủ ả ng a truy ề n - th ố ng Ki ế n tr de cung étaient ≤ NH - C ổ étaient ạ I Trung qu ố C,Affaire ồ ng th ờ I c ũ ng h ấ P Thu NH ữ ng n - T V - N - ho, étaient ặ C C C A S ắ ủ étaient ị a pH ư ơ ng V à c ủ a m ộ t s ố t ộ C ng ư ờ I KH, C, b ả o l ư u étaient ư ợ C C C - gi, tr ị ư u vi ệ T V ề m ặ t t ạ O H ≤ NH - TR, ki V étrangères ế n tr de truy ề n e m ≥ n ố ng. NH - ữ ng y ế u t ố n à y G ó P pH ầ n t ê ạ o n n m ộ t t ổ ng th ể ki sú ế n tr C C C, CH, Phong étaient ặ C Bi ệ T, Mang NH ữ ng étaient ặ C tr ư ng c ủ a mutation ệ Thu ậ t ki ế C H ú n tr a N, m, N, Mông và có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với kiến trúc ở khu vực này vào các giai đoạn sau. Đặc biệt là, kiến trúc cung điện ở đây thường áp dụng nguyên tắc “Bát kỳ” (một hình thức tổ chức xã hội của người Mãn) vào việc tổ chức bố cục mặt bằng kiến trúc - một đặc trưng kiến trúc mà không một cung điện nào khác trên thế giới có được. Do vây,T ừ pH ư ơ ng di ệ n b ả o n t i t ồ Cho ớ pH - t - tri ể n t - NH - a ạ ng d affaires C ủ a V - N ho, Ki ế n tr de première ề u Mang gi, tr ị n ổ I b ậ

t. Di s ả n à M - C - n ả C ti ê u ch - SAU:

- (i): c ố Cung l à m ộ t ki ệ t t A C C a l ủ ị ch s ử pH - t - tri ể n Ki ế n tr de cung étaient I ệ n - ố Trung C;

- (II): Qu ầ n th ể Ki ế n tr, ố c Cung Đ I ệ n c Cung, affaire C ặ Bi ệ T L - C ố Cung th ẩ M d ư ơ ng,ê ể U Cho U bi ti Ki ế n tr de truy ề n - th ố ng th ế k ỷ XVII - XVIII V à l - th à NH - ả ủ C A S ự Giao l ư U, h ộ I T ụ t ừ nhi ề u n n n ề Ki ế tr, c cung étaient I ệ n Kh - C C - a nhau ủ Trung ố C;

- (III): C à ố Cung l b ằ ng ch ứ ng X - C C c Th ự ủ a n ề n V - N - C Minh est Trung ố d ư ớ I th ờ I Minh - Thanh, salut ệ n c o n b ả o n t ồ étaient ư ợ C Nguy ê n V ẹ n - NH ữ ng gi Banka V ề m ặ T c ả NH - droits de l'homme, Ki ế n tr, tr, C, étrangères,Mutation ệ Thu ậ T étaient ư ơ ng th ờ I V à c o n L - C ơ s ở droits de l'homme tr ọ ng ng Cho Minh est ch ứ t ậ p t ụ C, truy ề n - th ố ng Chaman gi a o c ủ a t ộ C M São ừ nhi ề u e n t ế k ỷ tr ư ớ C étaient ế n nay;

- (IV): c ố Cung vis - à - vis - ầ n e l ể Ki ế n tr de cung étaient I ệ n n ổ I b ậ t t A C NH ấ ủ Trung qu ố C, b ả o n t ồ étaient ư ợ C NH ữ ng V ậ ch t ứ ng X - c Th ự C, pH ả N, NH - V ề s ự pH - t - tri ể n R ự C C A R ỡ ủ CH, NH Quy ề n Ho à ng Gia th ờ i - Thanh Minh,Affaire ồ ng th ờ I c ∫ n ứ ng Cho Minh est ch truy ề n th ố ng V à l ị ch s ử di ễ n Bi ế n Ki ế n tr de th ế k ỷ XVII - XVIII c a t ủ ộ C M ≥ n.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: