中国经济史论坛 当前位置:中国经济史论坛 » 中外古今 » 古代通论 » 宋明间白银购买力的变动及其原因宋明间白银购买力的变动及其原因全汉昇 dịch - 中国经济史论坛 当前位置:中国经济史论坛 » 中外古今 » 古代通论 » 宋明间白银购买力的变动及其原因宋明间白银购买力的变动及其原因全汉昇 Việt làm thế nào để nói

中国经济史论坛 当前位置:中国经济史论坛 » 中外古今 » 古代通论


中国经济史论坛
当前位置:中国经济史论坛 » 中外古今 » 古代通论 » 宋明间白银购买力的变动及其原因


宋明间白银购买力的变动及其原因
全汉昇



中国在唐(618—906)及北宋(960—1127)时代,由于全国的统一,商业的发展,钱币的使用非常发达。在唐末至北宋中叶以前,当钱币使用的盛况达到最高潮的时候,中国的货币制度又复前进一步,即采用银两及纸币作为交换的媒介。纸币始于宋真宗(998—1022)时四川交子的发行。白银在唐、宋之际已经开始具有货币的用途,好些物品的价格都以银来表示,民间买卖也以银作为交换的媒介。[1]

在自宋(960—1279)至明(1368—1644)的几百年中,白银作为货币来使用,并不完全畅通无阻。当纸币因发行过多而价值低跌的时候,政府为着要稳定纸币的价值,往往禁止白银当作货币来流通,以便强制人民使用纸币。[2]可是,中国社会经济长期演进的结果,由于客观形势的需要,白银自然而然的成为中国各地流通的主要货币,而且它的购买力有越来越增大的趋势。因为白银购买力增大,到了明朝中叶以后,或自公元16世纪开始,随着世界新航路的发现,及美洲储藏丰富的银矿之大规模的开采,中国便长期白海外输人大量的银子。自1565年开始,约共两个半世纪左右,每年航行于墨西哥(墨西哥及其附近的广大地区,当时称为“新西班牙”)与菲律宾间的西班牙大帆船,把大量的美洲白银运到马尼拉(Manila)后,其中大部分都给运货到那里出卖的中国商人转运回国。当日自马尼拉运往中国的白银之多,多到一位西班牙海军上将于1638年说,“中国国王(按应作‘皇帝’)能够用来自秘鲁(Peru)的银条来建筑一座宫殿!”[3]因为看见他们自美洲银矿采炼出来的银子,在运抵菲律宾以后,大多数都给中国商人运走,吃亏太大,在17世纪上半叶,有些西班牙人甚至建议放弃菲律宾,不要把它作为殖民地。[4]

为着要明了新大陆发见后美洲白银长期大量流人中国的背景,现在拟先分析宋、明间中国白银购买力变动的情况,然后进一步探讨变动的原因。



对于白银的购买力,我们可以根据以银表示的物价来加以测量。自宋至明,或自公元10世纪中叶以后至17世纪中叶以前的六个多世纪内,中国用银两来表示的物价有什么变动?对于这个问题,因为资料非常缺乏而零散,我们暂时只能分别就金价、米价及绢价的变动来加以考察。现在先说金价。

四十年前,日本加藤繁教授在他的著作《唐宋时代金银的研究》中,曾对宋代的金银比价,即以银表示的每两黄金的价格,加以研究。近年來,杨联陞教授在他的大著《中国货币及信用史略》[5]一书中,也曾注意到自宋至清的金银比价。现在根据这两位教授的研究,再拿拙著《元代的纸币》(《集刊》第十五本)所引有关元代(1277—1368)金银比价的记载来加以补充,作成第一表。

第一表 宋、元间以银表示的金一两的价格



续前表



资料来源:加藤繁《唐宋时代金银的研究》,页473,475;Lien.sheng Yang,Money and Creditin China.A Short History,Cambridge,1952 P.48;拙著《元代的纸币》,《集刊》第十五本。按表中所说的杉村勇造《元公牍拾零》,见《服部先生古稀祝贺纪念论文集》,页571至583。

根据第一表,我们可知北宋中叶以前,即约在公元10世纪末,11世纪初,金价曾经低至每两换银六两三钱少点。其后到了北宋末年,即1127年,金价高涨至每两值银十四两五钱有多。在南宋时代,金价每两换银十二三两左右。元代金一两的价格,则以等于十两银子的时候为多。自宋至元,金一两的平均价格约为十两三钱左右。

到了明代,以银表示的金价,和宋、元时代比较起来,可说低廉得多。这种现象,在明朝末年已经开始吸引顾炎武的注意,他在《日知录》中说:“会典钞法卷内云:洪武八年(1375),造大明宝钞,每钞一贯折银一两,每钞四贯易赤金一两。是金一两当银四两也。征收券内云:洪武十八年(1385),令凡折收税粮,金每两准米十石,银每两准米二石。是金一两当银五两也。三十年(1397)……更令金每两准米二十石,银每两准米四石。然亦是金一两当银五两也。永乐十一年(1413),令金每两准米三十石,则当银七两五钱矣。……幼时见万历(1573—1620)中,赤金止七八换,崇祯(1628—1644)中十换,江左至十三换矣。”[6]现在我们根据顾炎武的研究,再补充其他有关记载,作成第二表。

第二表 明代以银表示的金一两的价格[7]



续前表



表中①为[8]

续前表



根据第二表,我们可知明代金价非常低廉,每两平均价格为银六两四钱七分,约等于宋、元时代平均价格(每两换银十两零三钱少点)的百分之六三。在明代头二百五十年左右,金价最低时每两只值一两六钱七分,最高时每两换银八两有多,而大部分时间每两金价为银六两上下。到了明朝最后十年,金价上涨至每两换银十三两,才将近达到北宋金价的最高水准。因此,从以银来表示的金价的变动来看,中国白银的购买力,在自北宋至明末六百余年的期间内,有长期增长的趋势。

其次我们再看看米价的变动。因为米和黄金不同,它是体积重量比较大而价值比较小的一种商品,如果要远路运输,其售价受运输成本的影响非常之大。在过去交通运输不便而面积广大的中国,这个地区与那个地区的米价,往往由于运费的负担而相差很大。因此,现在我们考察自宋至明以银表示的米价,暂时以长江下游或江南为限。[9]关于宋、元时代这一地区的米价,兹据过去数种拙作所引用的资料,列表如下。

第三表 宋、元间江南每石米价(以银表示)



续前表



资料来源:拙著《北宋物价的变动》,《集刊》第十一本,页369及382;《南宋初年物价的大变动》,《集刊》第十一本,页403;《元代的纸币》,《集刊》第十五本,页37—39。

宋、元以后,关于明代江南各地的米价,我们也收集到一些资料,兹列表如下。

第四表 明代江南每石米价(以银表示)



续前表



根据第三、四两表,我们可知明代长江下游或江南的平均米价,每石约值银九钱四分多点,约为宋、元时代平均价格的百分之五○左右。因此,就米价来说,明代白银的购买力,约等于宋、元时代的两倍。自然,由于有系统的米价统计数字的缺乏,我们现在只能利用一些零零星星的记载来研究宋、明间米价的变动,得出的结果可能并不完全正确。尤其是现在我们所能看到的米价资料,多半是因米价激剧波动而引起当时人士注意,才被纪录下来的,故由此而计算出来的米价水准,事实上免不了有些偏高。因此,我们在这里探讨所得的结果,只能算是一个大致的趋势而已。

除金价和米价以外,我们又可看看宋、明间以银表示的绢价变动的情形。和米价一样,我们对于绢价的研究,也以长江下游或江南为限。因为元代绢价的资料非常缺乏,我们现在只把宋代和明代江南绢一匹的价格,分别列表如下。

第五表 宋代江南每匹绢价(以银表示)



续前表



资料来源:加藤繁《支那经济史考证》,下卷,页121,147,150—151,及313;拙著《南宋初年物价的大变动》,《集刊》第十一本,页407—409。

第六表 明代江南每匹绢价(以银表示)



续前表



把宋、明两代的绢价比较一下,我们可知明代绢一匹的平均价格只值银六钱,约只为宋代平均价格的百分之三八多点。这和明代平均金价为宋、元间的百分之六三,米价为百分之五○比较起来,下落的程度显然最大。[10]如果把自宋至明以银表示的金价、米价和绢价下降的程度计算在一起,我们可以判断,明代白银的购买力,约为宋、元时代的两倍左右。



中国白银的购买力,为什么自宋至明要增加一倍左右?为着要完满解答这个问题,我们应该一方面考察这几百年中金、米、绢及其他物品的供求状况和生产成本,他方面探讨货币方面的原因。不过,目前由于资料的限制,我们在本文中只能从白银需要方面来把与货币有关的原因讨论一下。

上文说过,我国在唐末至北宋时代,随着商业的发展,当钱币使用的盛况达到最高峰的时候,银两和纸币便或先或后的开始成为交换的媒介。这两种新货币最初本来同样流通,后来大约由于本国银矿生产不能满足需要,纸币却较占优势。可是,纸币的流通,时间久了,往往因为政府财政困难,大量增加发行,而价值剧跌,以致陷入通货膨胀的局面,其中尤以宋、元两朝的末叶为最严重。[11]

明太祖取得政权以后,于洪武八年(1375)命中书省造“大明宝钞”,规定每钞一贯准钱一千文,银一两,或金二钱五分。为着要保证宝钞的流通,在发行时就以法律禁止民间不得以金、银、物货交易,违者治罪。人民只准以金、银向政府掉换宝钞。政府又规定商税钱、钞兼收,比例为收钱十分之三,收钞十分之七,一百文以下的只收铜钱。[12]其后又发行“小钞”,白十文至五十文,共五种。[13]

洪武钞法初行的几年,因为发行量不大,还能保持和物价的一定比例。但自此以后,由于收回受限制,发行量没有限制,发行过多,收回很少,宝钞的价值便不能维持了。[14]早在明太祖仍然在位的洪武二十七年(1394),在两浙、江西、福建及两广等处流通的宝钞,面值一贯(即一千文)的,低折到等于铜钱五十文至一百六十文来行使,即价值下跌到只等于十九年前钞票刚发行时的百分之五至十六。[15]以后宝钞的价值更越来越低跌。现在把明代各地市场上每一贯宝钞兑换到的钱数,及每一两银子兑换到的钞数,分别列表如下。

第七表 明代每贯钞换钱数



续前表



第八表 明代每两银换钞数



续前表



根据第七、八两表,我们可知由明太祖开始发行的“大明宝钞”,就在他在位的后期,其价值已经不能维持得住。就每贯宝钞与铜钱兑换的比率来说,在它发行一百一十二年以后,价值下跌到不及原来的千分之一。就每两银子兑换宝钞的比率来说,在它发行一百六十五年以后,价值下跌到不及原来的万分之一。为着要维持宝钞的价值,明朝政府在最初发行的时候,已经明令禁止以金、银作为货币来交易。人民对于这种禁令大约并没有好好地遵守,故政府在洪武三十年(1397)、三十三年(1400)、永乐元年(1403)、永乐二年(1404)、洪熙元年(1425)及宣德元年(1426),都先后重申禁令。[16]除金、银外,原来规定与宝钞一同行使的铜钱,到了洪武二十七年(1394),有鉴于它的流通足以反映出宝钞价值的低跌,政府也掩耳盗铃,下诏禁止使用。其后到了正统十三年(1448),又重申这项禁令。[17]不过,政府这种强迫人民行使或持有不断贬值的宝钞,而不许他们行使价值比较稳定的金属货币的办法,在短期内固然可用严刑峻法来实行,但时间久了,人民为着保护自己的利益,免受损失,自然是要藐视这种禁令的。[18]不特如此,人民虽然被迫使用宝钞,因为对钞值的稳定早已失却信心,故钞一到手,便赶紧把它花费,结果宝钞的流通,不独数量加多,而且速度增大,从而促使市场上的物价向上升涨。[19]因为“天子不能与万物争权”,或违反经济上的自然法则,故到了宣德三年(1428)下诏停造新钞,就是已经印造好的,也收库存贮,不许放支。[20]其后到了正统元年(1436),政府在长江以南大部分交通不便地区征收的田赋,规定由米、麦折成银两,按照每石折银二钱五分的比率来征收,称为“金花银”。人民既然被准许用银代替米、麦来缴纳田赋,他们必须能够把米、麦拿到市场上出售,得到银子作代价才成。因此,政府“弛用银之禁,朝野率皆用银”,以后宝钞不复畅通,只有官俸还是用钞来折付。[21]

自宋真宗(998—1022)时四川发行交子以后,中国各种纸币的流通,到了明英宗正统元年(1436),已经有了四百余年的历史。在这长时期的纸币流通过程中,因为曾经发生过几次严重的通货膨胀,故到了“大明宝钞”不断贬值以后,白银便自然而然的代替宝钞作为交换的媒介。约在弘治(1488—1505)初期,丘濬说:“本朝制铜钱、宝钞相兼行使,……行之既久,意外弊牛。……白天顺(1457—1464)、成化(1465—1487)以来,钞之用益微矣。必欲如宝钞属镪之形,每一贯准钱一千,银一两,以复初制之旧,非用严刑不可也;然严刑非圣世所宜有。”[22]换句话说,明室统治中国约一世纪以后,如果要强迫人民像明初那样使用宝钞,事实上已经不可能;反之,在当日社会经济发展的过程中,白银却自然而然地普遍流通起来。



上引《明史》(卷八一,页4)《食货志》记载正统元年(1436)因明令征收“金花银”而“弛用银之禁,朝野率皆用银”之后,紧跟着说,“其小者乃用钱”。换句话说,自洪武钞法废坏以后,中国的货币制度以银两与铜钱并用为主要特点,不过因为铜钱的价值太小,不足以适应市场上大宗交易的需要,故银
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Diễn đàn của lịch sử kinh tế Trung Quốc Địa điểm: cổ đại Trung Quốc và nước ngoài cổ xưa và hiện đại Trung Quốc lịch sử kinh tế diễn đàn»»» bài hát Mingjian bạc thay đổi trong sức mua của lý thuyết và nguyên nhân của nóBài hát Mingjian bạc thay đổi trong sức mua và nguyên nhân của họHan shengMột trong những Trung Quốc trong thời nhà đường (618-906) và thời kỳ Bắc tống (960-1127), do thống nhất của đất nước, phát triển thương mại của các đồng tiền rất tốt phát triển. Ở giữa cuối thời nhà đường và trước, khi lòng tiền đạt đến một đỉnh cao khi của Trung Quốc thu chế độ bước chuyển tiếp một lần nữa, cụ thể là bạc và tiền giấy như một phương tiện trao đổi. Giấy bạc bắt đầu trong bài hát (998-1022), Jiao Zi của Sichuan khi phát hành. Bạc trong triều đại nhà đường và bài hát đã bắt đầu sử dụng tiền tệ, giá của nhiều mặt hàng có yinlai nói riêng bán cho bạc như là một phương tiện trao đổi. [1] Từ nhà Tống (960-1279) để nhà Minh (1368-1644) cho hàng trăm năm, bạc như là một loại tiền tệ để sử dụng, nó không phải là hoàn toàn rõ ràng. Khi tiền giấy phát hành quá nhiều giá trị thấp đã giảm khi chính phủ để ổn định giá trị của loại tiền tệ, thường cấm lưu thông của bạc khi tiền đến để buộc người dân phải sử dụng tiền giấy. [2] Tuy nhiên, kết quả lâu dài của sự tiến hóa của nền kinh tế xã hội của Trung Quốc, do nhu cầu bạc tự nhiên trở thành một loại tiền tệ lớn trong lưu thông trên toàn Trung Quốc, và sức mua của nó là xu hướng ngày càng tăng. Bởi vì sức mua tăng của bạc, sau khi giữa của nhà minh, hoặc bắt đầu từ thế kỷ thứ 16 nguyên, với việc phát hiện ra tuyến đường biển mới trong thế giới, và khối lượng phong phú của khai thác mỏ bạc ở châu Mỹ, có dài màu trắng Trung Quốc mất ở nước ngoài, có rất nhiều tiền. Bắt đầu từ năm 1565, tổng cộng khoảng hai và một nửa thế kỷ hoặc lâu hơn, khởi hành mỗi năm từ Mexico (Mexico và tiếp giáp với khu vực, sau đó được gọi là "Tân Tây Ban Nha") giữa Việt Nam và Tây Ban Nha chèo thuyền, rất nhiều người Mỹ bạc được vận chuyển đến Manila (Manila), đặt trong đó được chuyển cho thương nhân Trung Quốc cho transhipping hàng hóa mà người bán để trở về nhà. Kể từ khi ngày Manila hướng đến Trung Quốc, bạc, một thêm Tây Ban Nha Hải quân năm 1638, nói, "Trung Quốc vua ('hoàng đế') có thể sử dụng để Peru (Peru) bạc để xây dựng một cung điện!" [3] bởi vì họ thấy mình bạc tinh tế bạc ở châu Mỹ, sau khi đến ở Philippin, đa số là thương nhân Trung Quốc mang đi, bị quá nhiều, trong nửa đầu của thế kỷ 17, Tây Ban Nha đã thậm chí gợi ý bỏ Philippines, không nghĩ về nó như là một thuộc địa. [4] Để hiểu thế giới mới sau khi người Mỹ bạc có là lưu lượng lớn của người dân Trung Quốc nền, bây giờ dự định để phân tích những thay đổi trong sức mua của bài hát và nhà minh Trung Quốc bạc, và sau đó tiếp tục khám phá những lý do cho những thay đổi.Hai Cho sức mua của bạc, chúng tôi có thể được đo theo giá bạc. Từ tống minh nhà, hoặc từ sau khi quảng cáo thế kỷ giữa 10 đến thế kỷ giữa 17 trong hơn sáu thế kỷ trước, Trung Quốc giá trong lianglai bạc những gì thay đổi? cho vấn đề này, bởi vì thông tin là thiếu và phân mảnh, chúng ta phải tách biệt các thay đổi trong vàng giá, giá gạo và lụa để được kiểm tra. Bây giờ là giá của vàng. 40 năm trước đây, Nhật bản jiatengfan giáo sư trong các nghiên cứu của ông của cuốn sách của đường và bài hát nhà vàng và bạc, vàng và bạc giá để tống, có nghĩa là, hai lần giá của vàng, bạc, và tiến hành một nghiên cứu. Những năm gần đây, giáo sư tiến sĩ 陞 trong công việc của bạn, khái quát lịch sử của Trung Quốc thu và tín dụng [5] trong cuốn sách của ông, cũng ghi chú bài hát để thanh vàng và bạc giá. Bây giờ, theo nghiên cứu này hai giáo sư, và vụng về của tiền giấy nhà nguyên (15 trong lưu trữ) liên quan đến nhà nguyên (1277-1368), vàng và bạc giá ghi lại được bổ sung, làm cho bảng đầu tiên.Bàn đầu tiên giữa bài hát và nhân dân tệ giá vàng, bạc một hoặc haiTiếp tục từ trước bảng Nguồn: jiatengfan nghiên cứu Tang và bài hát nhà vàng và bạc, pp 473,475; Lien. Sheng Yang, tiền bạc và Creditin Trung Quốc. Một lịch sử ngắn, Cambridge, 1952 P. 48; vụng về của tiền giấy nhà nguyên, lưu trữ của 15. SUGIMURA Yong nói trong bảng làm cho titbits cặp tài liệu của giao thức, xem nhận được chúc mừng bài luận ông Hattori Memorial, trang 571-583. Theo bảng đầu tiên, chúng ta biết rằng trước khi vào giữa Bắc tống, có nghĩa là, khoảng cuối thế kỷ 10 nguyên, đầu thế kỷ 11, giá vàng đã nhỏ nhất là bạc 623 ít tiền mỗi hai điểm. Sau khi nhà Bắc tống, 1127, vàng giá cả tăng cao để có giá trị hai ngân hàng và 435 cent. Trong thời đại của bài hát miền Nam Triều, vàng bạc 242 mỗi hai hoặc lâu hơn. Loại một hoặc hai giá, là tương đương với 12 silvers đối với nhiều người. Từ tống Yuan, một vàng hoặc hai xung quanh thành phố giá trung bình là khoảng 33 cent. Trong thời nhà minh, vàng, bạc, so với các bài hát và triều đại nhân dân tệ, nhưng nói rằng nhiều rẻ hơn. Hiện tượng này, vào cuối thời nhà Minh đã bắt đầu để thu hút sự chú ý của Gu Yanwu, ông và ngày được ghi lại, nói: "khối lượng phương pháp tiền sẽ trong đám mây: triều tám năm (1375), minh nhà kho báu hóa đơn, tiền giấy mỗi đã luôn luôn gấp bạc một hoặc hai, mỗi lưu ý bốn qua vàng một hoặc hai. Là một phần của một hoặc hai khi bạc 42. Bộ sưu tập chứng từ đám mây: triều 18 tuổi (1385), nơi màn hình đầu tiên thuế-hạt vàng mỗi hai mét mười đá, bạc mỗi hai Mi Ershi. Là một phần của một hoặc hai khi bạc 52. 30 năm (1397)...... Hơn vàng mỗi hai mét 20 đá, bạc mỗi hai mét bốn đá. Nhưng nó là một phần của một hoặc hai khi bạc 52. 11 năm Yongle (1413), 30 đá vàng mỗi hai mét, khi 725 bạc tiền. …… Khi hoàng đế trẻ tuổi Wanli, Đài Bắc (1573-1620) và vàng bảy hay tám khác, Chong (1628-1644), mười trong trao đổi, Giang Trạch Dân trái để 13 cho sự thật. "[6] dựa trên nghiên cứu Gu Yanwu bây giờ, chúng tôi sẽ cố gắng thêm bản ghi khác có liên quan, thực hiện một bảng thứ hai.Thứ hai Hiển thị thay thế các ngân hàng nói giá vàng của một hoặc hai [7]Tiếp tục từ trước bảng表中①为[8]续前表 根据第二表,我们可知明代金价非常低廉,每两平均价格为银六两四钱七分,约等于宋、元时代平均价格(每两换银十两零三钱少点)的百分之六三。在明代头二百五十年左右,金价最低时每两只值一两六钱七分,最高时每两换银八两有多,而大部分时间每两金价为银六两上下。到了明朝最后十年,金价上涨至每两换银十三两,才将近达到北宋金价的最高水准。因此,从以银来表示的金价的变动来看,中国白银的购买力,在自北宋至明末六百余年的期间内,有长期增长的趋势。 其次我们再看看米价的变动。因为米和黄金不同,它是体积重量比较大而价值比较小的一种商品,如果要远路运输,其售价受运输成本的影响非常之大。在过去交通运输不便而面积广大的中国,这个地区与那个地区的米价,往往由于运费的负担而相差很大。因此,现在我们考察自宋至明以银表示的米价,暂时以长江下游或江南为限。[9]关于宋、元时代这一地区的米价,兹据过去数种拙作所引用的资料,列表如下。第三表 宋、元间江南每石米价(以银表示)续前表 资料来源:拙著《北宋物价的变动》,《集刊》第十一本,页369及382;《南宋初年物价的大变动》,《集刊》第十一本,页403;《元代的纸币》,《集刊》第十五本,页37—39。 宋、元以后,关于明代江南各地的米价,我们也收集到一些资料,兹列表如下。第四表 明代江南每石米价(以银表示)续前表 根据第三、四两表,我们可知明代长江下游或江南的平均米价,每石约值银九钱四分多点,约为宋、元时代平均价格的百分之五○左右。因此,就米价来说,明代白银的购买力,约等于宋、元时代的两倍。自然,由于有系统的米价统计数字的缺乏,我们现在只能利用一些零零星星的记载来研究宋、明间米价的变动,得出的结果可能并不完全正确。尤其是现在我们所能看到的米价资料,多半是因米价激剧波动而引起当时人士注意,才被纪录下来的,故由此而计算出来的米价水准,事实上免不了有些偏高。因此,我们在这里探讨所得的结果,只能算是一个大致的趋势而已。 除金价和米价以外,我们又可看看宋、明间以银表示的绢价变动的情形。和米价一样,我们对于绢价的研究,也以长江下游或江南为限。因为元代绢价的资料非常缺乏,我们现在只把宋代和明代江南绢一匹的价格,分别列表如下。第五表 宋代江南每匹绢价(以银表示)续前表 资料来源:加藤繁《支那经济史考证》,下卷,页121,147,150—151,及313;拙著《南宋初年物价的大变动》,《集刊》第十一本,页407—409。
第六表 明代江南每匹绢价(以银表示)



续前表



把宋、明两代的绢价比较一下,我们可知明代绢一匹的平均价格只值银六钱,约只为宋代平均价格的百分之三八多点。这和明代平均金价为宋、元间的百分之六三,米价为百分之五○比较起来,下落的程度显然最大。[10]如果把自宋至明以银表示的金价、米价和绢价下降的程度计算在一起,我们可以判断,明代白银的购买力,约为宋、元时代的两倍左右。



中国白银的购买力,为什么自宋至明要增加一倍左右?为着要完满解答这个问题,我们应该一方面考察这几百年中金、米、绢及其他物品的供求状况和生产成本,他方面探讨货币方面的原因。不过,目前由于资料的限制,我们在本文中只能从白银需要方面来把与货币有关的原因讨论一下。

上文说过,我国在唐末至北宋时代,随着商业的发展,当钱币使用的盛况达到最高峰的时候,银两和纸币便或先或后的开始成为交换的媒介。这两种新货币最初本来同样流通,后来大约由于本国银矿生产不能满足需要,纸币却较占优势。可是,纸币的流通,时间久了,往往因为政府财政困难,大量增加发行,而价值剧跌,以致陷入通货膨胀的局面,其中尤以宋、元两朝的末叶为最严重。[11]

明太祖取得政权以后,于洪武八年(1375)命中书省造“大明宝钞”,规定每钞一贯准钱一千文,银一两,或金二钱五分。为着要保证宝钞的流通,在发行时就以法律禁止民间不得以金、银、物货交易,违者治罪。人民只准以金、银向政府掉换宝钞。政府又规定商税钱、钞兼收,比例为收钱十分之三,收钞十分之七,一百文以下的只收铜钱。[12]其后又发行“小钞”,白十文至五十文,共五种。[13]

洪武钞法初行的几年,因为发行量不大,还能保持和物价的一定比例。但自此以后,由于收回受限制,发行量没有限制,发行过多,收回很少,宝钞的价值便不能维持了。[14]早在明太祖仍然在位的洪武二十七年(1394),在两浙、江西、福建及两广等处流通的宝钞,面值一贯(即一千文)的,低折到等于铜钱五十文至一百六十文来行使,即价值下跌到只等于十九年前钞票刚发行时的百分之五至十六。[15]以后宝钞的价值更越来越低跌。现在把明代各地市场上每一贯宝钞兑换到的钱数,及每一两银子兑换到的钞数,分别列表如下。

第七表 明代每贯钞换钱数



续前表



第八表 明代每两银换钞数



续前表



根据第七、八两表,我们可知由明太祖开始发行的“大明宝钞”,就在他在位的后期,其价值已经不能维持得住。就每贯宝钞与铜钱兑换的比率来说,在它发行一百一十二年以后,价值下跌到不及原来的千分之一。就每两银子兑换宝钞的比率来说,在它发行一百六十五年以后,价值下跌到不及原来的万分之一。为着要维持宝钞的价值,明朝政府在最初发行的时候,已经明令禁止以金、银作为货币来交易。人民对于这种禁令大约并没有好好地遵守,故政府在洪武三十年(1397)、三十三年(1400)、永乐元年(1403)、永乐二年(1404)、洪熙元年(1425)及宣德元年(1426),都先后重申禁令。[16]除金、银外,原来规定与宝钞一同行使的铜钱,到了洪武二十七年(1394),有鉴于它的流通足以反映出宝钞价值的低跌,政府也掩耳盗铃,下诏禁止使用。其后到了正统十三年(1448),又重申这项禁令。[17]不过,政府这种强迫人民行使或持有不断贬值的宝钞,而不许他们行使价值比较稳定的金属货币的办法,在短期内固然可用严刑峻法来实行,但时间久了,人民为着保护自己的利益,免受损失,自然是要藐视这种禁令的。[18]不特如此,人民虽然被迫使用宝钞,因为对钞值的稳定早已失却信心,故钞一到手,便赶紧把它花费,结果宝钞的流通,不独数量加多,而且速度增大,从而促使市场上的物价向上升涨。[19]因为“天子不能与万物争权”,或违反经济上的自然法则,故到了宣德三年(1428)下诏停造新钞,就是已经印造好的,也收库存贮,不许放支。[20]其后到了正统元年(1436),政府在长江以南大部分交通不便地区征收的田赋,规定由米、麦折成银两,按照每石折银二钱五分的比率来征收,称为“金花银”。人民既然被准许用银代替米、麦来缴纳田赋,他们必须能够把米、麦拿到市场上出售,得到银子作代价才成。因此,政府“弛用银之禁,朝野率皆用银”,以后宝钞不复畅通,只有官俸还是用钞来折付。[21]

自宋真宗(998—1022)时四川发行交子以后,中国各种纸币的流通,到了明英宗正统元年(1436),已经有了四百余年的历史。在这长时期的纸币流通过程中,因为曾经发生过几次严重的通货膨胀,故到了“大明宝钞”不断贬值以后,白银便自然而然的代替宝钞作为交换的媒介。约在弘治(1488—1505)初期,丘濬说:“本朝制铜钱、宝钞相兼行使,……行之既久,意外弊牛。……白天顺(1457—1464)、成化(1465—1487)以来,钞之用益微矣。必欲如宝钞属镪之形,每一贯准钱一千,银一两,以复初制之旧,非用严刑不可也;然严刑非圣世所宜有。”[22]换句话说,明室统治中国约一世纪以后,如果要强迫人民像明初那样使用宝钞,事实上已经不可能;反之,在当日社会经济发展的过程中,白银却自然而然地普遍流通起来。



上引《明史》(卷八一,页4)《食货志》记载正统元年(1436)因明令征收“金花银”而“弛用银之禁,朝野率皆用银”之后,紧跟着说,“其小者乃用钱”。换句话说,自洪武钞法废坏以后,中国的货币制度以银两与铜钱并用为主要特点,不过因为铜钱的价值太小,不足以适应市场上大宗交易的需要,故银
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: