根据第九表,可知自宋至明,政府岁人钱数越来越少,银数则越来越多。由此我们也可以看出明代社会“用银而废钱”的趋势。 银在明代社会中的重要性之所 dịch - 根据第九表,可知自宋至明,政府岁人钱数越来越少,银数则越来越多。由此我们也可以看出明代社会“用银而废钱”的趋势。 银在明代社会中的重要性之所 Việt làm thế nào để nói

根据第九表,可知自宋至明,政府岁人钱数越来越少,银数则越来越多。由此我

根据第九表,可知自宋至明,政府岁人钱数越来越少,银数则越来越多。由此我们也可以看出明代社会“用银而废钱”的趋势。

银在明代社会中的重要性之所以远过于钱,原因有种种的不同。其中最重要的一点,为明代商业的特别发展。明自立国以后,随着国家的长期统一.人口与物产都大量增加,从而促进商业的空前繁荣。[28]到了万历年间(1573—1620),由于大规模商业的经营,“富室之称雄者,江南则推新安(在今安徽南部),江北则山右(即山西)。新安大贾,鱼、盐为业,藏镪有至百万者。其他Z.–十万,则中贾耳。山右或盐或丝,或窖粟,其富甚于新安”[29]。当商业发展,交易量增大的时候,用价值低下的铜钱来做交换媒介自然要感到不便,故有行使价值较大的银两[30]之必要。

在明代流通的货币中,银两之所以比铜钱重要得多,又由于当日铸钱量的减小。铜是铸钱的主要原料,可是经过过去长期的开采以后,明朝“坑冶之利,比前代不及什之一二,间或有之,随取随竭”[31]。铜矿生产既然有限,明初政府因为铸钱需铜,“令私铸钱作废铜送官,偿以钱。是时有司责民出铜,民毁器皿输官,颇以为苦”[32]。由于铜的缺乏,明代铜价昂贵,从而铸钱成本特别的高[33],故铸钱数量甚小。根据洪武二十六年(1393)的则例,当时除南京外,全国各地的炉座,一年共可铸钱一八九、四一四贯零八百文。[34]这和北宋熙宁六年(1073)后及元丰三年(1080)每年约铸钱六百万贯[35]的数字比较起来,约只为后者的百分之三多点。不特如此,洪武二十六年所规定的每年18、19万贯的铸钱额,实际上并不是年年铸造,而是时常停铸。就是在铸造的年头,也不一定按照定额铸造。因此,明朝到16世纪末为止的两百多年间,铸钱的数目并不多,总共恐怕不过千把万贯。[36]换句话说,明代头二百多年所铸的钱,在北宋熙宁(1067—1077)、元丰(1078—1085)时代铸钱最多的年头,只要两三年的时间便可铸造出来。钱的铸造额既然这样稀少,不足以满足当日在商业发展中的市场上的需要,人们自然要普遍用银来交易了。

除由于商业发展及铸钱量小以外,明代社会对于银的需要所以远比钱大,又由于钱值不如银值那么稳定。关于铜钱的流通情况,顾炎武说:“我朝(明朝)钱法,遇改元即随年号各铸造通用。”[37]因此,明代某一皇帝死了,上面刻有他的年号的钱便不再通用,从而价值下跌,或打折扣才能行使,使持有人大受损失。[38]自然,由于铸钱的稀少,全国各地不可能都使用刻有当今皇帝年号的钱,也有使用宋代及其他朝代旧钱的。可是,旧钱有许多种,无论哪一种都不能长期行用;当停止行用以后,钱值往往下落三分之二,即低跌到只等于原值的三分之一。[39]由于钱值的剧烈波动,人民生活自不免要大受打击。例如隆庆四年(1570)高拱说:“小民日求升合,觅数钱以度朝夕,必是钱法有一定之说,乃可彼此通行。而乃旦更暮改,迄无定议。小民见得如此.恐今日得钱而明日不用,将必至于饿死。是以愈变更愈纷乱,愈禁约愈惊惶,铺面不敢开,买卖不得行,而嗷嗷为甚。”[40]因此,明代钱值老是不稳定的结果,人民为着保护自己的利益,自然不愿用钱,而普遍采用价值比较稳定的银两来作货币了。



综括上文,我们可知以银表示的物价,自宋至明,有向下降落的趋势。我们因此可以测量出明代白银的购买力,约为宋、元时代的两倍左右。

在这几个世纪内,中国白银的购买力所以增大,原因有种种的不同,但在货币方面对于白银需要的激增,当是其中一个重要的原因。因为在明代商业发展声中,由于通货膨胀而不断贬值的纸币,和供给不足、价值低下而不稳定的铜钱,都不足以满足各地市场上对于货币的庞大需要,故银两便普遍流通起来。除市场交易以外,面对着这种货币经济发展的大潮流,政府原来以征收实物为主的税收,也改为“折银”,更助长对银需要的增大。上文说过,早在正统元年(1436),政府在长江以南大部分运输困难地区课征的田赋,已开始由米、麦改折成银,按照每石折银二钱五分的比率来征收,称为“金花银”。这种课征办法,后来到了嘉靖年间(1522—1566)更扩大范围,使全国各地(除漕粮地区外)的田赋、徭役以及其他摊派,都合并在一起,改折成银两来缴纳,称为“一条鞭法”。[41]此外,在盐法方面,明代政府初时实行“开中”(去声,纳粟中盐的意思)之法,即由商人在边地(以北方及西北为主)开垦耕种,把收获的粟或米向沿边驻军缴纳来作军饷,然后换取盐引,前往淮南等产盐地区领盐出售。可是自弘治五年(1492)开始,政府改变这种办法,不再要商人纳粟或米,而要他们纳银,然后给与盐引。[42]因此,明代政府岁人中的银两,有越来越多的趋势。

对于因银的需要增大而物价下落及银的购买力提高的情形,生当明季的黄梨洲已经有一个敏锐的观察,他说:“至今日而赋税市易,银乃单行……夫银力已竭,而赋税如故也,市易如故也,皇皇求银,将于何所?故田土之价,不当异时之十一。岂其壤瘠与?曰否,不能为赋税也。百货之价,亦不当异时之十一。岂其物阜与?曰否,市易无资也。”([43]这种因银的需要激增而购买力提高的背景,说明了明朝中叶以后,当世界新航路发现的浪潮冲击到中国海岸来的时候,为什么中国在对外贸易扩展的过程中,要长期自国外输入大量的银子。

注释:

[1]加藤繁《唐宋时代金银的研究》(曰文本,东洋文库论丛第六,东京,大正十五年,即1926年)第一分册,第二、三章。又参考拙著《从货币制度看中国经济的发展》,《中国文化论集》(台北,1953年)第一集,页117—123。

[2]拙著《元代的纸币》,中研院《历史语言研究所集刊》(以下简称《集刊》)第十五本(上海商务印书馆,1948年),页1—48。

[3] Emma Helen Blair and James Alexander Robertson,eds.,The PhiEppine Islands.1493—1898(以下简称PAil Isls.),Cleveland,1903—09,Vo1.29,PP.70—71;T’oung Pa0,V01.Vl,Leide,1895,PP.457—458;China Review,Vo1.XIX,no.4,Shanghai,1891.PP.243—255.

[4] Phil.Isls.,V01.19,P.237;V01.27,PP.64—65.William Lytle Schurz,The Manila Galleon,New York,1939,PP.405—6.

[5] Lien.sheng Yang,Money and Gredit in China:A Short History,Cambridge,1952, pp.47—48.

[6]顾炎武《日知录集释》(黄汝成集释,道光十四年刊)卷一一,页12—l3,“黄金”。按文中说洪武八年的金银比价,见《大明会典》(中文书局影印万历十五年司礼监刊本)卷三一,页1,“钞法”;洪武十八年,见同书卷二九,页1,“征收”;洪武三十年,见同书卷二九,页3,“征收”。

[7]参考彭信威《中国货币史》(上海,1958),页503及619;Lien—Sheng Yang,前引书,页47—48;A.Kobata,“The Production and Uses of Gold and Silver in Sixtecnth-and Sev emeenth-Century Japan,”in Economic History Review,Second Series,Vo1.XVIIl,No.2,Au gust l965,PP,245—266.

[8]正统五年(1440)山西大同的金价,便宜到每两只值银一两六厘七分少点(据“金六钱折银一两”计算出来),和其他年代的金价比较起来,着实过于偏低。按《明英宗实录》卷六五,页1,载正统五年三月“乙丑,巡抚河南、山西行在兵部左侍郎于谦奏:山西民已贫困,所解大同折粮金、银诸物,甚不易得。近闻彼处巡抚官以金、银成色不及,抑令煎销,不惟延候日久,且所用木炭、黑铅等物,并亏折之数,何从出办。乞令银一两折米二石,金六钱折银一两,收库支用,则民免稽延,不悮农种,官军亦得其便。上谓户部臣曰:谦所言良是,其速行之!”按明代政府在山西大同一带驻有不少军队来巩固国防,为着应付那里军费的开支,故命令山西民众向大同缴解折粮金、银,而规定“银一两折米二石,金六钱折银一两”。这种比率,显然是根据当地市场实况(或行情)来斟酌决定的。现在我们要问,当日山西大同的金价为什么会低落到这样的程度?我想,这可能有两种解释:第一,根据上面引文提及“山西……大同……巡抚官以金、银成色不及,抑令煎销”一事,当时在那里的黄金的成色,可能远较白银为低。第二,由于当日山西北部社会经济的特殊情况,金、银的供求状况,可能各有不同。换句话说,比较起来,金可能供过于求,银可能求过于供,故产生金价偏低的特殊现象。

[9]宋、明时代长江下游或江南米价的变动,大致可以代表全国米价变动的趋势,因为这个地区在当日全国经济中占有非常重要的地位。关于此点,除因为自宋以来“苏(州)、常(州)熟,天下足”的长江三角洲是全国的谷仓以外,我们又可以从这个地区的户口在全国总额中所占的百分比之大,观察出来。北宋元丰三年(1080)全国共有一六、四七二、九二○户,其中淮南、两浙、江南东西路共有五、五四四、四五二户(加藤繁《支那经济史考证》,东京,1953,下卷,页347—348),约占全国产数的百分之三四。及明洪武二十六年(1393),全国共有一○、六五二、七八九户,六○、五四五、八一二口,其中江苏、浙江、安徽及江西共有五、六○五、○一一户,三○、二二五、九八六口(ping-ti Ho.Studies on the Population of China,1368–1953,Cambridgc,1959,P.10),约占全国总额的百分之五○。

[10]明代绢价所以特别下降,除由于如本文将要指出的货币方面的原因以外,又由于明初政府在各地积极增加蚕桑生产,发展丝纺织业。关于这方面的情形,吴晗曾经加以研究,他说:“龙凤十一年(1365)六月,下令凡农民有田五亩到十亩的,栽桑、麻、木棉各半亩,十亩以上的加倍,田多的照比例递加。地方官亲自督视,不执行命令的处罚。不种桑的使出绢一匹,不种麻和木棉的出麻布或棉布一匹。(《明太祖实录》卷一五,《明史}卷一三八《杨思义传》)洪武元年(1368),把这制度推广到全国,并规定科征之类,……栽桑的四年以后再征租。……二十五年(1392),令凤阳、滁州、庐州、和州每户种桑二百株……令天下卫所屯田军士每人种桑百株……二十七年(1394),令户部教天下百姓务要多种桑、枣和棉花,并教以种植之法。每一户初年种桑、枣二百株,次年四百株,三年六百株。栽种过数目造册回奏,违者全家发遣充军。……二十九年(1396),以湖广诸郡宜于种桑,而种之者少,命于淮安府及徐州取桑种二十石,派人送到辰、沅、靖、全、道、永、宝庆、衡州等处(今湖南及广西北部一带),各给一石,使其民种之,发展这一地区蚕丝生产和丝织工业(《明太祖实录》卷二一五,二二二,二三二,二四三,《明会典》,朱国桢《大政记》,《明通纪》)。为了保证命令的贯彻执行,下诏指出农桑为衣食之本,全国地方官考课,一定要报告农桑的成绩,并规定二十六年(1393)以后栽种桑、枣、果树,不论多少,郡免征赋(《明太祖实录》卷七七,二四三,吴晗《明初社会生产力的发展》,科学出版社出版《历史研究》,1955,第3期,页58)。由于蚕丝增产政策的积极推行,明代绢产量自然增加,生产成本自然下降,故绢价远较宋代为低。除此以外,自元代开始,由于黄道婆在松江普遍传授棉纺织技术,棉纺织工业在长江下游及其他地区发展起来(拙著《鸦片战爭前江苏的棉纺织业》,《清华学报》新一卷第三期,1958年,页25—51)。到了明代,许多人都用棉布缝制衣服,对于绢的需要自然减小,故绢价下降。

[11]拙著《宋末的通货膨胀及其对于物价的影响》,《集刊》第十本,页193—222;《元代的纸币》,见前。

[12] 《大明会典》卷三一,页1,《钞法》;《明史》(艺文印书馆本)卷八一,页1—2,《食货志》;《明史稿》,志六二,页15,《食货》四。

[13] 《明史稿》,志六二,页15,《食货》四。

[14]例如《明太宗实录》(史语所印)卷三三,页8,载永乐二年(1404)七月庚寅,“都察院左都御史陈瑛言:比岁钞法不通,皆缘朝廷出钞太多,收敛无法,以致物重钞轻。……”(《明史》卷八一,页3,《食货志》略同)又《明史》卷八一,页4,《食货志》说:“及(仁宗)即位(1425),以钞不行,询(户部尚书夏)原吉。原吉言:钞多则轻,少则重。民间钞不行,缘散多敛少。……”

[15] 《续文献通考》卷一○,页5—6,在洪武二十七年项下说:“时民重钱轻钞,多行折使。初以钞一贯折钱五十文,后折百六十文。浙、闽、江(西)、(两)广诸处皆然。由是物价踊贵,钞法益坏不行。”又参考《明太祖实录》(史语所印)卷二三四,页2,“洪武二十七年八月丙戌”;《明史》卷八一,页3,《食货志》;《明史稿》,志六二,页16,《食货》四。

[16] 《明史》卷八一,
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Việt) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Theo bảng Nineth, từ tống để nhà minh, chính phủ cung cấp càng nhiều tuổi người ít hơn, nhiều hơn và nhiều hơn nữa bạc. Chúng tôi cũng có thể thấy từ xã hội này ở nhà minh "với bạc và lãng phí tiền bạc" xu hướng. Tầm quan trọng của bạc trong xã hội trong nhà minh là quá nhiều tiền, có tất cả các loại lý do khác nhau. Một trong những quan trọng nhất của tất cả, cho sự phát triển thương mại của nhà minh. Minh nhà sau khi độc lập, cùng với đoàn kết lâu dài của đất nước. Nhiều hơn dân số và bất động sản, góp phần vào sự thịnh vượng chưa từng thấy của doanh nghiệp. [28] Wanli, Đài Bắc (1573-1620), do hoạt động thương mại quy mô lớn, "vua phong phú những người đẩy Nam Xin một (ở tỉnh An Huy này hoa đông) và North Hills bên phải (IE Sơn Tây). Xin suo Jia, cá, muối ngành công nghiệp, trốn của một triệu người. Z khác. -100,000, Jia của tai. Quyền hoặc muối, hay lụa, hoặc hầm kê, giàu hơn mới "[29]. Khi phát triển thương mại, khi khối lượng tăng, trao đổi phương tiện truyền thông làm với đồng tiền của giá trị thấp sẽ tự nhiên được inconvenienced, đó là giá trị lớn hơn bạc [30] cần thiết. Loại tiền tệ trong lưu thông trong nhà minh, bạc là quan trọng hơn tiền bạc, và do việc giảm số tiền ngày hôm đó. Đồng là thành phần chính trong bạc hà, nhưng sau khi long sau khi khai thác của nhà minh "lợi ích luyện kim, hơn thế hệ trước của shizhi hơn một hoặc hai, hoặc thậm chí với đó, mất Draconis" [31]. Giới hạn đồng sản xuất mỏ, đồng minh chính quyền non vì số tiền cần thiết, "giả mạo đồng tiền dành cho cán bộ, tuyên bố số tiền. Có việc đưa người dân ra khỏi đồng, phá hủy các sĩ quan giao thông vận tải container thay vào đó họ "[32]. Do thiếu đồng, đồng minh là đắt tiền, do đó, chi phí là đặc biệt cao [33], do đó, số tiền là chỉ một số ít. Dưới triều 26 tuổi (1393) của viện trợ, ngoài Nam Kinh, một lò khắp đất nước, năm 189, 414 tất cả đúc tiền thông qua 800. [34] và miền bắc tống XI-Ning cho sáu năm (1073) và nhân dân tệ-feng sau ba năm (1080) về đúc 6 triệu một năm qua [35] so với con số, về more than chỉ cho 3% của điểm sau. Nay, triều 26 tuổi dưới 18, $ 190,000 thông qua số tiền mỗi năm, và là không thực sự bỏ sau năm năm, nhưng thường dừng chân đúc. Là trong đúc năm không nhất thiết phải theo cố định đúc. Vì vậy, cho đến khi cuối thế kỷ 16 cho hơn 200 năm của minh nhà và tiền đúc số có thể không có, tôi là sợ nhưng phong phú trong tổng số. [36] nói cách khác, đúc tiền trong nhiều hơn 200 năm của nhà minh, trong thời nhà Bắc tống XI-Ning (1067-1077), nhân dân tệ tiền đúc phong (1078-1085) hơn bất kỳ năm khác trong thời đại, miễn là hai hoặc ba năm thời gian sẽ được đúc. Số tiền đúc tiền như vậy khan hiếm, là không đủ để đáp ứng nhu cầu thị trường trong phát triển kinh doanh vào ngày, mọi người đang tự nhiên hơn thường sử dụng bạc để thương mại. Ngoại trừ do số lượng nhỏ của tiền đúc, và phát triển thương mại Minh nhà bạc nhu cầu lớn hơn nhiều hơn tiền bạc, và giá trị tiền ít ổn định hơn bạc. Trên dòng tiền, Gu nói, "tôi nhìn (nhà minh) Cianfa trường hợp hệ thống, với đúc của tên Đại tướng. "[37] vì thế, một vị hoàng đế nhà minh là chết, với tên của mình, sau đó rơi vào quá xưa, mà giảm giá trị, hoặc ít hơn có thể được thực hiện, người giữ khỏi bị mất. [38] trong tự nhiên, bởi vì tiền bạc là khan hiếm, đất nước không thể được sử dụng với ngày hôm nay của niên hiệu của hoàng đế, và cũng được sử dụng trong tống và các triều đại khác của old tiền. Tuy nhiên, có rất nhiều loại cổ tiền, mà có thể là đường dài khi dừng lại sau khi hàng với giá trị tiền thường mùa thu hai phần ba, bằng giá trị ban đầu của vùng áp thấp rơi để chỉ một phần ba. [39] do để đu hoang dã trong giá trị của tiền, chắc chắn là thỏa thuận một đòn nghiêm trọng cho những người của cuộc sống. Ví dụ, longqing bốn năm (1570), GAO cho biết: "Wang tìm kiếm tăng bộ sưu tập, tìm một ngày sẽ trở thành Cianfa có một số nói, nhưng có thể vượt qua với nhau. Trong khi naidan twilight thay đổi, nhưng không chắc chắn về. Wang. Sợ hãi của tiền vào ngày hôm nay và ngày mai không, sẽ chết đói đến chết. Để thay đổi hỗn loạn hơn, hạn chế hơn, càng có nhiều dismayed và vỉa hè không thể mở, thương mại sẽ không, whining quá. "[40] do đó, giá trị tiền luôn luôn là các kết quả không ổn định vào thời nhà minh, những người để bảo vệ lợi ích riêng của họ, tự nhiên không muốn chi tiêu tiền bạc, và giá trị phổ quát của nó tương đối ổn định lianglai bạc được sử dụng như tiền tệ.Năm Bài phát biểu ở trên, chúng ta biết rằng giá, trong bạc, từ tống để nhà minh, không có xu hướng đi xuống trong đất. Do đó, chúng tôi có thể đo lường sức mua của bạc vào thời nhà minh, khoảng hai lần lần trong bài hát và triều đại nhân dân tệ. Trong nhiều thế kỷ tại, màu xám, tăng sức mua của Trung Quốc, có là tất cả các loại lý do khác nhau, nhưng trong điều khoản của thu, cho sự đột biến của bạc nhu cầu, khi là một trong những lý do quan trọng. Bởi vì trong việc phát triển thương mại của nhà minh, giảm tiền giấy do lạm phát, thiếu nguồn cung cấp, và giá trị của tiền xu đồng thấp và không ổn định, là không đủ để đáp ứng lớn cần cho loại tiền tệ trên thị trường, vì vậy lưu thông phổ quát bạc nó lên. Ngoại trừ thị trường giao dịch, phải đối mặt với xu hướng này phát triển kinh tế, chính phủ đã phải áp đặt thuế thực, được đổi thành "gấp bạc", và thêm vào nhu cầu AG để tăng. Đã nói ở trên, và càng sớm như năm đầu tiên của chính thống giáo (1436), phần lớn khu vực vận chuyển về phía nam của sông Dương tử, chính phủ đất thuế áp dụng đã được chuyển đổi thành bạc lần bắt đầu từ gạo, lúa mì, theo mỗi đá bạc II gấp tiền tỷ giá tính cho năm điểm, được gọi là "vàng bạc." Phương pháp này của tiền, sau đó vào Jiajing (1522 – 1566) mở rộng trong cả nước (ngoại trừ hạt ngoài) của vùng đất phong kiến thuế và corvee và đánh giá khác được sáp nhập với nhau thay vì bạc gấp lại thành lianglai trả tiền, được gọi là "một roi da". [41] Ngoài ra, trong các khía cạnh muối phương pháp, chính phủ minh đầu Shi thực hiện "mở cửa vào các" (cảm hứng, na kê trong muối ý nghĩa) của phương pháp, mà bởi thương gia biên giới (phía Bắc và phía Tây Bắc chủ yếu là) nông nghiệp cải tạo, đặt thu hoạch kê hoặc mét đến dọc theo đơn vị đồn trú bên trả tiền để trả tiền được thực hiện, sau đó giới thiệu muối, ghé thăm Huainan, sản xuất muối lá dẫn muối được bán. Tuy nhiên, Hongzhi năm (1492), chính phủ đã thay đổi cách tiếp cận, không có nhiều doanh nghiệp na kê hoặc gạo, nhưng của Nano-bạc, và muối. [42] vì thế, chính phủ minh tuổi người với bạc, có một xu hướng ngày càng tăng. Giảm giá và ngày càng tăng về sự cần thiết cho bạc bạc mua quyền lực để cải thiện tình hình, khi nhà Minh Hoàng lợi có một cảm giác quan tâm của quan sát, ông nói: "hôm nay, dễ dàng, thuế, bạc là một dòng...... Bạc đã bị kiệt sức, và thuế như trước là, như bao giờ hết, huanghuang tìm kiếm bạc, sẽ là những gì? để giá đất, không phù hợp trong các thời điểm khác nhau của 11. Đất cằn cỗi và? nói không, không thuế. Cửa hàng giá, cũng không chính xác khi 11. Fu? nói không, mà không có tài trợ. "([43] The Silver needed purchasing power increased by the increase in background, Explained after the Middle of the Ming Dynasty, when the world's New Sea Wave discovered when He came to the Chinese Coast, Why is China in Foreign Trade and extend the process of having to have Plenty...Bình luận:[1] jiatengfan nghiên cứu của đường và bài hát nhà vàng và bạc (văn bản tiếng Nhật, Toyo Bunko loạt VI, Tokyo, Taisho 15, 1926) fascicle đầu tiên, thứ hai đến thứ ba. Tham khảo của tôi cuốn sách sửa chữa của sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc từ hệ thống tiền tệ, bộ sưu tập của Trung Quốc văn hóa trên (Đài Bắc, 1953), tập đầu tiên, pp 117-123.[2] vụng về của tiền giấy nhà nguyên, tại học viện Sinica viện lịch sử và triết học của học viện Sinica (sau đây gọi tắt là lưu trữ của) 15 (Thượng Hải thương mại Press, năm 1948), pp 1-48.[3] Emma Helen Blair và James Alexander Robertson, eds. , Quần đảo PhiEppine. 1493-1898 (sau đây gọi tắt là thùng Isls. ), Cleveland, 1903-09, Vo1. 29, PP. 70-71; T'oung Pa0, V01. VL, Leide, 1895, PP. 457 — 458; Trung Quốc xem lại, Vo1. XIX, không có. 4, Thượng Hải, 1891. PP. 243-255.[4] Phil.Isls.,V01.19,P.237;V01.27,PP.64—65.William Lytle Schurz,The Manila Galleon,New York,1939,PP.405—6.[5] Lien.sheng Yang,Money and Gredit in China:A Short History,Cambridge,1952, pp.47—48.[6]顾炎武《日知录集释》(黄汝成集释,道光十四年刊)卷一一,页12—l3,“黄金”。按文中说洪武八年的金银比价,见《大明会典》(中文书局影印万历十五年司礼监刊本)卷三一,页1,“钞法”;洪武十八年,见同书卷二九,页1,“征收”;洪武三十年,见同书卷二九,页3,“征收”。[7]参考彭信威《中国货币史》(上海,1958),页503及619;Lien—Sheng Yang,前引书,页47—48;A.Kobata,“The Production and Uses of Gold and Silver in Sixtecnth-and Sev emeenth-Century Japan,”in Economic History Review,Second Series,Vo1.XVIIl,No.2,Au gust l965,PP,245—266.[8]正统五年(1440)山西大同的金价,便宜到每两只值银一两六厘七分少点(据“金六钱折银一两”计算出来),和其他年代的金价比较起来,着实过于偏低。按《明英宗实录》卷六五,页1,载正统五年三月“乙丑,巡抚河南、山西行在兵部左侍郎于谦奏:山西民已贫困,所解大同折粮金、银诸物,甚不易得。近闻彼处巡抚官以金、银成色不及,抑令煎销,不惟延候日久,且所用木炭、黑铅等物,并亏折之数,何从出办。乞令银一两折米二石,金六钱折银一两,收库支用,则民免稽延,不悮农种,官军亦得其便。上谓户部臣曰:谦所言良是,其速行之!”按明代政府在山西大同一带驻有不少军队来巩固国防,为着应付那里军费的开支,故命令山西民众向大同缴解折粮金、银,而规定“银一两折米二石,金六钱折银一两”。这种比率,显然是根据当地市场实况(或行情)来斟酌决定的。现在我们要问,当日山西大同的金价为什么会低落到这样的程度?我想,这可能有两种解释:第一,根据上面引文提及“山西……大同……巡抚官以金、银成色不及,抑令煎销”一事,当时在那里的黄金的成色,可能远较白银为低。第二,由于当日山西北部社会经济的特殊情况,金、银的供求状况,可能各有不同。换句话说,比较起来,金可能供过于求,银可能求过于供,故产生金价偏低的特殊现象。
[9]宋、明时代长江下游或江南米价的变动,大致可以代表全国米价变动的趋势,因为这个地区在当日全国经济中占有非常重要的地位。关于此点,除因为自宋以来“苏(州)、常(州)熟,天下足”的长江三角洲是全国的谷仓以外,我们又可以从这个地区的户口在全国总额中所占的百分比之大,观察出来。北宋元丰三年(1080)全国共有一六、四七二、九二○户,其中淮南、两浙、江南东西路共有五、五四四、四五二户(加藤繁《支那经济史考证》,东京,1953,下卷,页347—348),约占全国产数的百分之三四。及明洪武二十六年(1393),全国共有一○、六五二、七八九户,六○、五四五、八一二口,其中江苏、浙江、安徽及江西共有五、六○五、○一一户,三○、二二五、九八六口(ping-ti Ho.Studies on the Population of China,1368–1953,Cambridgc,1959,P.10),约占全国总额的百分之五○。

[10]明代绢价所以特别下降,除由于如本文将要指出的货币方面的原因以外,又由于明初政府在各地积极增加蚕桑生产,发展丝纺织业。关于这方面的情形,吴晗曾经加以研究,他说:“龙凤十一年(1365)六月,下令凡农民有田五亩到十亩的,栽桑、麻、木棉各半亩,十亩以上的加倍,田多的照比例递加。地方官亲自督视,不执行命令的处罚。不种桑的使出绢一匹,不种麻和木棉的出麻布或棉布一匹。(《明太祖实录》卷一五,《明史}卷一三八《杨思义传》)洪武元年(1368),把这制度推广到全国,并规定科征之类,……栽桑的四年以后再征租。……二十五年(1392),令凤阳、滁州、庐州、和州每户种桑二百株……令天下卫所屯田军士每人种桑百株……二十七年(1394),令户部教天下百姓务要多种桑、枣和棉花,并教以种植之法。每一户初年种桑、枣二百株,次年四百株,三年六百株。栽种过数目造册回奏,违者全家发遣充军。……二十九年(1396),以湖广诸郡宜于种桑,而种之者少,命于淮安府及徐州取桑种二十石,派人送到辰、沅、靖、全、道、永、宝庆、衡州等处(今湖南及广西北部一带),各给一石,使其民种之,发展这一地区蚕丝生产和丝织工业(《明太祖实录》卷二一五,二二二,二三二,二四三,《明会典》,朱国桢《大政记》,《明通纪》)。为了保证命令的贯彻执行,下诏指出农桑为衣食之本,全国地方官考课,一定要报告农桑的成绩,并规定二十六年(1393)以后栽种桑、枣、果树,不论多少,郡免征赋(《明太祖实录》卷七七,二四三,吴晗《明初社会生产力的发展》,科学出版社出版《历史研究》,1955,第3期,页58)。由于蚕丝增产政策的积极推行,明代绢产量自然增加,生产成本自然下降,故绢价远较宋代为低。除此以外,自元代开始,由于黄道婆在松江普遍传授棉纺织技术,棉纺织工业在长江下游及其他地区发展起来(拙著《鸦片战爭前江苏的棉纺织业》,《清华学报》新一卷第三期,1958年,页25—51)。到了明代,许多人都用棉布缝制衣服,对于绢的需要自然减小,故绢价下降。

[11]拙著《宋末的通货膨胀及其对于物价的影响》,《集刊》第十本,页193—222;《元代的纸币》,见前。

[12] 《大明会典》卷三一,页1,《钞法》;《明史》(艺文印书馆本)卷八一,页1—2,《食货志》;《明史稿》,志六二,页15,《食货》四。

[13] 《明史稿》,志六二,页15,《食货》四。

[14]例如《明太宗实录》(史语所印)卷三三,页8,载永乐二年(1404)七月庚寅,“都察院左都御史陈瑛言:比岁钞法不通,皆缘朝廷出钞太多,收敛无法,以致物重钞轻。……”(《明史》卷八一,页3,《食货志》略同)又《明史》卷八一,页4,《食货志》说:“及(仁宗)即位(1425),以钞不行,询(户部尚书夏)原吉。原吉言:钞多则轻,少则重。民间钞不行,缘散多敛少。……”

[15] 《续文献通考》卷一○,页5—6,在洪武二十七年项下说:“时民重钱轻钞,多行折使。初以钞一贯折钱五十文,后折百六十文。浙、闽、江(西)、(两)广诸处皆然。由是物价踊贵,钞法益坏不行。”又参考《明太祖实录》(史语所印)卷二三四,页2,“洪武二十七年八月丙戌”;《明史》卷八一,页3,《食货志》;《明史稿》,志六二,页16,《食货》四。

[16] 《明史》卷八一,
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Việt) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Theo bảng thứ chín, chúng ta có thể nhìn thấy từ Sông đến nhà Minh, chính phủ là ít hơn và ít tiền hơn tuổi người đàn ông, số bạc ngày càng tăng. Từ đây chúng ta có thể nhìn thấy nhà Minh "với bạc và lãng phí tiền bạc" xu hướng. Tầm quan trọng của nhà Minh trong lý do tại sao bạc quá nhiều, có tất cả các loại lý do khác nhau. Điểm quan trọng nhất cho sự phát triển của các doanh nghiệp cụ thể thời nhà Minh. Tiếp theo sau khi đất nước độc lập, với sự thống nhất quốc gia dài hạn. Một sự gia tăng đáng kể trong dân số và tài sản, qua đó thúc đẩy sự thịnh vượng chưa từng thương mại. [28] đến Vạn Lịch (1573-1620), do hoạt động thương mại quy mô lớn, "chi phối bởi các buồng giàu, Giang Nam sau đó đẩy Xin'an (nay ở miền nam An Huy), Jiangbei các Shanyou (tức là, Sơn Tây). Xin'an lớn Jia, cá, diêm nghiệp, sở hữu của axit sulfuric có tới một triệu người. Khác Z.- hàng ngàn, sau đó trong Jia tai. Shanyou hoặc muối hay lụa, hoặc hố kê, mà là rất giàu Xin'an. "[29]. Do sự phát triển kinh doanh, khối lượng giao dịch tăng lên khi, với đồng tiền có giá trị thấp làm bạn muốn được phiền phức vừa tự nhiên trao đổi, đó là [30] nó là cần thiết để thực hiện giá trị lớn của bạc. Tiền tệ trong lưu thông trong thời nhà Minh, các đồng tiền bạc là quan trọng hơn nhiều so với lý do, và do số lượng giảm tiền nhưng trong cùng một ngày. Đồng là nguyên liệu chính để tiền xu bạc hà, nhưng sau khi qua lâu sau khi khai thác mỏ, nhà Minh "hố cai trị của các lợi ích, thậm chí còn ít hơn so với các thế hệ trước của hai, đôi khi có, với việc kiểm tra với khô." [31]. Sản xuất đồng được giới hạn từ khi chính phủ Ming đầu vì tiền nhưng cần đồng ", vì vậy mà tiền tư nhân nhưng đã lỗi thời viên giao hàng đồng, bồi thường bằng tiền là một bộ phận những người chịu trách nhiệm ra đồng, thùng vận chuyển công cộng bị phá hủy viên, chứ không phải đau khổ đó." [32] . Bởi vì sự thiếu đồng, đồng thời nhà Minh đắt tiền, do đó, tiền nhưng chi phí đặc biệt cao [33], do đó tiền nhưng số lượng rất nhỏ. Theo Hongwu 26 năm (1393) trong các trường hợp, khi ngoài đến Nam Kinh, các lò nung trên khắp đất nước, năm có tổng cộng 189 đồng xu bạc hà, bốn một bốn không tám trăm thông điệp nhất quán. [34] Điều này và Bắc Sông Xining sáu năm (1073) và Genpo sau ba năm (1080) để tiền xu bạc hà phù hợp sáu triệu mỗi năm [35] Sự so sánh kỹ thuật số, chỉ về những điểm sau hơn ba phần trăm . Không liên quan đến vụ án, để tiền xu bạc hà 18,19 triệu số tiền hàng năm phù hợp quy định tại Hongwu hai mươi sáu năm, trên thực tế, không phải ở giữa đúc, nhưng thường dừng đúc. Đó là trong việc đúc đầu tiên, không nhất thiết phải đúc theo hạn ngạch. Do đó, nhà Minh đến hai trăm năm cho đến thế kỷ thứ 16, số tiền nhưng không nhiều, nhưng tôi sợ rằng tổng cộng một ngàn triệu phù hợp. [36] Nói cách khác, hai trăm năm đầu tiên của Chim Dynasty Ming tiền, trong các học thuyết mới bắc (1067-1077), Yuan Feng (1078-1085) tiền thời đại nhưng hầu hết trong năm, miễn là hai hoặc ba năm thời gian sẽ là Đúc ra. Casting số tiền kể từ này hiếm, đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh doanh của thị trường trong cùng một ngày, đó là tự nhiên để sử dụng rộng rãi bạc để đối phó. Ngoài việc phát triển kinh doanh và do số lượng nhỏ tiền nhưng bên ngoài bạc nhà Minh cho đến nay nhu cầu về tiền lớn, nhưng cũng bởi vì giá trị tiền bạc tốt hơn so với giá trị kém ổn định hơn. Trên lưu thông tiền xu, Gu nói :. "Tôi nhìn (Ming) phương pháp tiền, đó là trường hợp với sự cai trị của mỗi đúc Gaiyuan phổ quát" [37] Như vậy, một hoàng đế nhà Minh qua đời, khắc với đỉnh triều đại của ông Tiền là không còn phổ biến, và do đó giảm trong giá trị hoặc giảm giá để tập thể dục, vì vậy giữ NPC đau khổ. [38] Một cách tự nhiên, do các đồng xu bạc hà khan hiếm, đất nước có thể không sử dụng triều khắc của ngày hôm nay của Emperor Qian, cũng được sử dụng trong các triều đại Song và tiền cũ khác. Tuy nhiên, có rất nhiều loại tiền cũ, không có vấn đề gì loại đường không phải là sử dụng lâu dài; khi đường dừng lại với tương lai, có xu hướng giảm hai phần ba giá trị tiền tương đương với mức thấp chỉ giảm một phần ba giá trị ban đầu. [39] Do biến động về giá trị của tiền bạc, cuộc sống của người dân không thể không có một cú đánh lớn kể từ đó. Ví dụ Minh Mục bốn năm (1570) Gao Luân Công cho biết: "Sham ngày hoặc tìm nhau, tìm kiếm số tiền ở các mức độ ngày và đêm, sẽ có một số phương pháp số tiền đó có thể truy cập vào mỗi buổi tối khác một lần nữa thay đổi, cho đến khi không cố định. cuộc họp. Xiaomin xuất hiện như vậy. sợ ngày mai không có tiền ngày hôm nay, nhất thiết sẽ coi bỏ đói. được càng thay đổi nhiều nhầm lẫn, càng mất tinh thần nhiều hơn về lệnh cấm, mở không mở, bán không thể chèo, và gầm lên đáng kinh ngạc. "[ 40] Như vậy, giá trị tiền bạc của nhà Minh luôn luôn kết quả thất thường, người dân bảo vệ quyền lợi riêng của họ, tự nhiên không muốn tiêu tiền, nhưng thường được sử dụng giá trị bạc tương đối ổn định để kiếm tiền một. Năm Gộp chung ở trên, chúng ta có thể thấy giá bạc đại diện từ Sông đến nhà Minh, đã hạ cánh xu hướng giảm. Do đó chúng ta có thể đo lường sức mua của bạc nhà Minh, về những bài hát, khoảng hai lần thời đại đồng đô la. Trong nhiều thế kỷ, do đó tăng sức mua của bạc Trung Quốc, có tất cả các loại lý do khác nhau, nhưng trong điều kiện tiền tệ bạc cần thiết cho việc tăng, như là một trong những lý do quan trọng. Bởi vì sự phát triển kinh doanh đúng đắn trong thời nhà Minh, do lạm phát và sự mất giá liên tục của tiền giấy, và sự thiếu hụt nguồn cung, giá trị của đồng tiền thấp và không ổn định, không đủ để đáp ứng nhu cầu rất lớn đối với thị trường tiền tệ trên toàn thế giới, vì vậy bạc thường sẽ lưu hành. Ngoài các giao dịch thị trường, đồng tiền phải đối mặt với xu hướng chính của phát triển kinh tế, Chính phủ đã phải đánh thuế chủ yếu ở các loại, mà còn để "tắt bạc", nhưng cũng góp phần làm gia tăng nhu cầu đối với bạc. Đề cập ở trên, sớm trong năm đầu tiên chính thống (1436), Chính phủ trong khu vực phía nam của sông Dương Tử khó khăn nhất để vận chuyển thuế đất áp dụng, đã được chuyển đổi từ gạo, lúa mì gấp đổi bạc, theo hai tiền mỗi đá giảm giá bạc tỉ thứ năm tiền, được gọi là "Silver Vàng." Cách tiếp cận này, tiền và sau đó đến Minh Thế (1522-1566) mà còn mở rộng phạm vi của nước đó (trừ hạt vận chuyển đến bên ngoài khu vực) thuế đất, các lãnh chúa và các khác đánh giá, được nhóm lại với nhau, gấp lại so với sự thay đổi để trả tiền, gọi là "roi." [41] Ngoài ra, xét về phương pháp muối, chính phủ Minh để thực hiện "mở" (giảm tone, muối, kê trung bình) của luật pháp vào đầu tiên, đó là, từ doanh nhân trong khu vực biên giới (chủ yếu ở phía bắc và tây bắc) cho nông nghiệp, các kê hoặc lúa thu hoạch quân đến biên giới để thực hiện việc thanh toán tiền lương, để đổi lấy muối và chì, Hoài Nam và khu vực sản xuất muối khác đi muối cổ áo được bán ra. Nhưng kể từ khi Koji năm năm (1492), chính phủ đã thay đổi cách tiếp cận này, không còn là doanh nhân, kê, gạo, nhưng để họ hài lòng bạc, chì và sau đó cho muối. [42] Như vậy, doanh thu của chính phủ Ming so với con người, có một xu hướng ngày càng tăng. Đối với nhu cầu ngày càng tăng giá bạc và giảm sức mua của trường hợp bạc, dứa liệu Châu Ming mùa khi đó đã là một sự quan sát sắc sảo, ông nói: "Hôm nay và thuế cho thành phố là dễ dàng, bạc là sức bạc đã được một chiều ...... chồng khô cạn, và thuế như trước cũng có, thành phố cũng là một cách dễ dàng như trước, là không đáng kể tìm bạc, sẽ là những gì đất của giá? nó là không phù hợp khi mười một bản thân khác nhau, với đất cằn cỗi của nó? Không nói, không thể đánh thuế quá. bộ phận giá cũng không khi thời gian của mười một bản thân khác nhau với Fu vật lý của họ? nói Không, thành phố cũng rất dễ dàng để có vốn. "([43] Như vậy là một sự đột biến do sự cần thiết phải nâng cao sức mua của nền bạc, giải thích sau khi triều đại giữa Ming, khi Các tuyến đường mới phát hiện ra làn sóng tác động thế giới đến bờ biển Trung Quốc đến, tại sao Trung Quốc quá trình mở rộng thương mại nước ngoài, nhập một số lượng lớn tiền dài hạn từ nước ngoài. Ghi chú: [1] Kato Fan "Vàng và Bạc của học Tang và Song" ( cho biết các văn bản, Toyo Bunko FORUM thứ sáu, Tokyo, Taisho mười lăm năm, cụ thể là năm 1926) Tập I, Chương II và III. và tài liệu tham khảo vụng về "từ hệ thống tiền tệ để thấy sự phát triển kinh tế của Trung Quốc", "Trung Quốc Văn hóa Tiểu luận "(Đài Bắc, 1953) tập đầu tiên, các trang 117-123. [2] vụng về "Yuan tiền giấy," Academia Sinica "Bản tin của Viện lịch sử và ngôn ngữ" (sau đây gọi là "bản tin"), mười lăm này (Shanghai Commercial Press Thư viện, 1948), pp. 1-48. [3] Emma Helen Blair và James Alexander Robertson, eds., The PhiEppine Islands.1493-1898 (sau đây gọi là thùng ISLs.), Cleveland, 1903-1909, Vo1.29, PP.70-71; T'oung Pa0, V01.Vl, Leide, 1895, PP.457-458 ;. China Review, Vo1.XIX, số 4, Thượng Hải, 1891.PP.243-255 [4] Phil .Isls, V01.19, p.237 ;. V01.27, PP.64-65.William Lytle Schurz, The Manila Galleon, New York, 1939, PP.405-6. [5] Lien.sheng Yang, Money và Gredit ở Trung Quốc :. Một lịch sử ngắn, Cambridge, năm 1952, pp.47-48 [6] Gu "Rizhilu thiết release" (黄汝成đặt phát hành, Dynasty mười bốn năm) Tập I, p. 12-L3, " Vàng Ming Hui Dian "(sách Trung Quốc photocopy Vạn Lịch mười lăm năm Sili Jian in edition) Tập I, p 1,." ghi Luật "," theo như văn bản, cho biết giá vàng và bạc Hongwu tám năm, thấy ";. Hongwu mười tám năm, Xem hai mươi chín với sách vở, trang 1, "bộ sưu tập"; ". trưng thu" Hongwu ba thập kỷ, với những cuốn sách hai mươi chín xem trang 3, [7] . Tài liệu tham khảo Peng Xinwei "Một lịch sử tiền tệ của Trung Quốc" (Thượng Hải, 1958), trang 503 và 619; Lien-Sheng Yang, sđd, trang 47-48;... A. Kobata, "Sản xuất và sử dụng của vàng và bạc trong Sixtecnth và Sev emeenth-Century Nhật Bản" tại Khu Kinh tế Lịch sử Review, Second Series, Vo1. XVIIl, số 2, Au cơn l965, PP, 245-266. [8] Chính Thống năm năm (1440) giá vàng Đại Đồng, rẻ hơn để trân trọng từng hai bạc và một hai bảy điểm ít hơn thêm vào tài khoản của bạn (theo "vàng hai màu bạc và một sáu tiền off" tính), và giá vàng của nhau so sánh đó là, thực sự, quá thấp. Bấm "Yingzong Ghi" Volume V, trang 1, chứa chính thống tháng 3 năm 2005, "Yi Chou, thống đốc của Hà Nam, Sơn Tây đường Hyobu lại trợ lý Bộ trưởng Yu Qian chơi: người Sơn Tây đã được bần cùng hóa, các giải pháp Datong gấp vàng và bạc ăn tất cả mọi thứ , rất khó khăn để có được vàng chính thức gần đây băng giá mùi đốc của, độ mịn bạc ít hơn, pin nhằm ức chế chiên, Bu Wei Yan Hou trình thời gian, và việc sử dụng than, chì màu đen là, và một vài gói mất, phải làm gì từ ra. Ăn xin Đặt hai bạc và một đá mét hai lần, tiền vàng tắt sáu bạc và một hoặc hai, đóng thư viện chi tiêu, sau đó người dân tránh chậm trễ, không悮loài nông nghiệp, sẽ được gọi là quân đội chính phủ亦得Bộ về Chen Yue: Qian nói tốt mà! "như chính phủ nhà Minh ở khu phố Đại Đồng Sơn Tây có rất nhiều quân để củng cố quốc phòng, có một thỏa thuận với chi tiêu quân sự, do đó lệnh dân Đại Đồng Sơn Tây để trả Solutions hạt vàng, bạc, và các quy định của" đường truyền tốc độ bằng bạc mười hai lần hai mét bằng đá, vàng sáu tiền ra bạc mười hai. " Tỷ lệ này rõ ràng là dựa vào tình hình thị trường nội địa (hoặc thị trường) để quyết định. Bây giờ chúng ta phải tự hỏi, ngày Datong tại sao giá vàng thấp đến mức mà tôi nghĩ rằng điều này có thể có hai cách giải thích :? Đầu tiên, theo trích dẫn nói trên "Đại Đồng Sơn Tây ...... ...... vàng phủ thống đốc, độ mịn bạc ít hơn, nhằm đàn áp pin chiên "vấn đề, ​​sau đó có độ mịn của vàng, bạc có thể cao hơn nhiều so với thấp hơn. Thứ hai, do hoàn cảnh đặc biệt ở miền bắc Sơn Tây ngày xã hội và nền kinh tế, cung cấp và nhu cầu vàng, bạc, và nó có thể thay đổi. Nói cách khác, bằng cách so sánh, vàng có thể là một nguồn cung quá mức bạc có thể yêu cầu vượt quá cung, do đó, có một hiện tượng đặc biệt của giá vàng thấp. [9] Song, hoặc những thay đổi trong giá của hạ lưu sông Dương Tử Trung và Nam Ming thời đại, gần bằng giá gạo trên danh nghĩa của sự thay đổi xu hướng trong nước, bởi vì khu vực này chiếm một vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc gia trong ngày. Tỷ lệ phần trăm về điểm này, bởi vì ngoài kể từ khi Song "Su (nhà nước), Chang (nhà nước) nấu chín, thế là đủ," đồng bằng sông Yangtze là quốc gia bên ngoài chuồng, chúng ta có thể từ tài khoản của cổ phiếu trong khu vực của tổng số quốc gia lớn, nó đã được quan sát. Bắc Yuanfeng ba năm (1080) đã có mười sáu, 472,九二○ hộ gia đình, trong đó có Hoài Nam, Liangzhe, Đông Tây Nam có tổng cộng năm, Tứ Thứ tư, 452 (Kato fan "nghiên cứu Trung Quốc Lịch Sử Kinh Tế "Tokyo, năm 1953, khối lượng tiếp theo, các trang 347-348), khoảng ba mươi bốn% của số quốc gia sản xuất. Và Hongwu 26 năm (1393), đã có一○, 652, 789 sáu ○, 545, tám trăm mười hai, bao gồm cả Giang Tô, Chiết Giang, An Huy và Giang Tây, tổng cộng có năm hoặc sáu ○ năm, ○ mười một, Baisan ○, 225, 986 (Ho.Studies ping-ti về dân số của Trung Quốc, 1368-1953, Cambridgc, 1959, P.10), chiếm tổng số quốc gia năm phần mỗi ○. [10] nhà Minh giảm giá lụa rất đặc biệt, ngoại trừ lý do như bài viết này sẽ được lưu ý rằng khác với tiền tệ, và kể từ khi chính phủ Ming đầu tích cực tăng cường sản xuất trồng dâu nuôi tằm ở trong nước, sự phát triển của dệt lụa. Về tình hình trong lĩnh vực này, Wu Han đã được nghiên cứu, ông cho biết: "Hôm qua mười một năm (1365) tháng, nơi nông dân đã ra lệnh cho năm mẫu Anh đến mười mẫu ruộng, dâu tằm, cây gai dầu, bông gạo mỗi một nửa sào, hơn mười mẫu tăng gấp đôi tỷ lệ của một quy mô trượt theo Tian và nhiều thẩm phán. đích thân giám sát việc truyền hình, không thực hiện các lệnh trừng phạt. không phải viện một cây dâu tằm tơ, không trồng cây gai dầu và linen hoặc cotton bông gạo ra một ("Ming Ghi "Volume Năm," Ming} Tập tám "杨思义Biography") Hongwu triều đại (1368), hệ thống này đã lan rộng trên toàn quốc, và các quy định tại mục tiền và như thế, bốn năm sau ...... Zaisang tiền thuê nhà. ... ... 25 năm (1392), vì vậy Fengyang, Chuzhou, Lô Châu, và tiểu bang mỗi hai trăm loài dâu ...... làm cho thế giới Tianjun Shi Wei Tuen mỗi một trăm loài dâu ...... 27 năm (1394) , Bộ Giáo dục để người dân thường nên nhiều dâu, táo tàu và bông, và giảng dạy pháp luật để phát triển. Mỗi triều đại gia đình dâu, táo tàu hai trăm, bốn trăm năm, sáu trăm năm trồng. phát lại thông qua số lượng kiểm kê và người phạm tội gia đình tẩy lông lưu vong. ...... 29 năm (1396) đến Hồ Bắc và Hồ Nam Zhu Jun là loài thích hợp của cây dâu tằm, và ít loại người, cuộc sống ở Từ Châu, Huaian và mất hai mươi Mulberry Stone, gửi cho Chen, Yuan Jing, toàn bộ, Road, Wing, Baoqing, Hampshire, vv (nay là một phần phía bắc của tỉnh Hồ Nam và Quảng Tây), mỗi một hòn đá, vì vậy mà loại người, sự phát triển của khu vực này sản xuất lụa và Công nghiệp dệt ("Ming Ghi" Volume mười lăm, 222 học và đại học hai, 243, "Ming Hui Dian", Zhu Guozhen "tâm lớn về chính trị", "Ming Tong Ji") theo thứ tự. Để đảm bảo thực hiện, ban hành một sắc lệnh tuyên bố Nongsang như thực phẩm và quần áo của đất nước, các thẩm phán quốc gia của các kiểm tra, phải báo cáo kết quả Nongsang, và cung cấp 26 năm (1393) sau khi trồng dâu, táo tàu, cây ăn quả, bất kể bao nhiêu hạt được miễn Fu ("Ming Record 'Khối 2277 243, Ngô Han," sự phát triển của lực lượng sản xuất vào đầu Minh ", các nhà xuất bản khoa học" Nghiên cứu lịch sử ", năm 1955, Chương 3, trang 58). Kể từ khi chính sách tích cực của sản lượng lụa thực hiện, sản xuất tơ lụa thời nhà Minh tăng tự nhiên, sự suy giảm tự nhiên trong chi phí sản xuất, nó là cao hơn nhiều so với giá lụa nhà Tống là thấp. Ngoài ra, kể từ khi triều đại nhà Nguyên, do sự giảng dạy rộng rãi Huang Daopo trong công nghệ dệt Songjiang, ngành công nghiệp dệt may ở sông Dương Tử và khác Phát triển khu vực lên (cuốn sách của tôi "Trước khi chiến tranh nha phiến ở Giang Tô bông công nghiệp dệt may", "Đại học Thanh Hoa" Khối lượng mới III, 1958, pp. 25-51). Để các triều đại nhà Minh, nhiều người đã sử dụng quần áo may cotton lụa giảm nhu cầu tự nhiên, giảm giá để lụa. [11] vụng về "Late Song of lạm phát và tác động của nó về giá cả," "Bản tin" 10 này, các trang 193-222; "Yuan tiền giấy", op. . [12] "Ming Hui Dian" Tập I, p 1, "lưu ý Luật"; ". Ming Dynasty" (Nghệ thuật Nhà in này) Juanba I, p 1-2, "Thực phẩm và tiền."; "lịch sử rõ ràng" , Chi sáu mươi hai, trang 15, "hàng hóa thực phẩm" bốn. [13] "lịch sử rõ ràng", Chí sáu mươi hai, trang 15, "hàng hóa thực phẩm" bốn. [14] như "Minh Thái Tông Record" (Lịch sử của các ngôn ngữ Ấn Độ) Tập Ba, trang 8, chứa Yongle hai năm (1404) vào tháng Bảy GY, "Censorate trái là những lời Hoàng Shichen Ying: tiền hơn so với luật tuổi thất bại, tất cả các cạnh của tòa án ra tiền quá, hội tụ không thể, vì vậy đó là tiền quan trọng ánh sáng. ...... "(" Ming Dynasty "Juanba một trang 3," Thực phẩm và tiền "Great óc nghĩ như nhau) và" Ming "khối lượng tám một, trang 4," Thực phẩm và Money ", cho biết:" và (Ren) lên ngôi (1425), Không có tiền, tư vấn (Bộ trưởng mùa hè) cây đàn guitar ban đầu. Original Yoshikoto: nhiều tiền hơn là ánh sáng, từ trọng lượng. Không có tiền riêng, lấy cạnh ít hơn bình thường. ...... " [15] "Sách chung tiếp tục," Volume ○, trang 5-6, trong Hongwu hai mươi bảy mặt hàng, cho biết: "Khi mọi người khinh tiền và tiền, nhiều đường chiết khấu để thực hiện. Đầu tiên với tiền luôn luôn gấp tiền giấy năm mươi, sáu mươi trăm giấy gấp lại. Chiết Giang, Phúc Kiến, Giang Tây (West), (hai) rộng ở tất cả như nhau. Đến bước nhảy giá là tốn kém, không xấu lợi hợp pháp tiền. "Đồng thời tham khảo" Ming cuốn hồi ký "(Lịch sử và Ngữ văn Ấn Độ) Khối lượng ba bốn, trang 2," vua Hồng Vũ hai mươi BingXu tháng 8 năm 2007 ";" Ming Dynasty "Juanba một trang 3," Thực phẩm và tiền ";" Ming lịch sử ", Chí sáu mươi hai, trang 16," hàng hóa thực phẩm "bốn. [16] "Dynasty Ming" Juanba I.















































đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: