ÁO DÀI VIỆT NAMKhi nhắc đến thời trang Việt Nam, chúng ta không thể kh dịch - ÁO DÀI VIỆT NAMKhi nhắc đến thời trang Việt Nam, chúng ta không thể kh Anh làm thế nào để nói

ÁO DÀI VIỆT NAMKhi nhắc đến thời tr

ÁO DÀI VIỆT NAM

Khi nhắc đến thời trang Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến “Áo dài”, bộ trang phục truyền thống lâu đời của người dân Việt Nam. Trải qua bao thế kỉ chiếc áo dài đã có nhiều thay đổi so với tổ tiên nó trước đây. Không ai biết rõ nguồn gốc nguyên thủy của chiếc áo dài vì chưa có tài liệu ghi nhận.

Chiếc áo giao lãnh được coi là chiếc áo dài đầu tiên. Áo này cũng tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc hai tà không được buộc vào nhau. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả, cùng với váy thâm đen. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán nên khi mặc chiếc áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân với hai tà trước được thả nay cột gọn gàng mặc cùng váy xắn quai cồng tiện việc lao động.

Đối với phụ nữ nông dân áo tứ thân được mặc rất đơn giản với áo yếm ở trong, áo ngoài cột tà và thắt lưng. Mặc kèm với áo thường là chiếc khăn mỏ quạ đen tuyền. Trong khi đó, áo tứ thân dành cho tầng lớp quý tộc lại rất nhiều chi tiết. Mặc ngoài cùng là chiếc áo the thâm màu nâu non, chiếc áo thứ hai màu mỡ gà, chiếc áo thứ ba màu cánh sen. Khi mặc thường không cài kín cổ, để lộ ba màu áo. Bên trong mặc chiếc yếm màu đỏ thắm. Thắt lưng lụa màu hồng đào hoặc thiên lý. Áo mặc với váy màu đen, đầu đội nón quai thao càng làm tăng thêm nét duyên dáng của người phụ nữ. Nhưng sau một thời gian áo tứ thân được cách tân để giảm chế nét dân dã lao động và tăng dáng dấp sang trọng khuê các. Thế là chiếc áo ngũ thân ra đời. Áo ngũ thân được cải tiến ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu và vạt con nằm dưới vạt trước tượng trưng cho người mặc. Năm hột nút nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo được ngay thẳng, kín đáo tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Nhưng đến thời Pháp thuộc, chiếc áo đài lại một lần nữa thay đổi. “Lemur” là tên tiếng Pháp để chỉ chiếc áo dài cách tân. Chiếc áo dài này do người họa sĩ có tên là Cát Tường sáng tạo ra. Bốn vạt trước và sau thu gọn thành hai tà trước sau. Vạt trước dài chấm đất tăng thêm sự duyên dáng và uyển chuyển. Hàng nút phía trước của áo được chuyển dọc qua hai vai và chạy dọc một bên sườn. Áo may ráp vai, tay phồng, cổ bồng hoặc hở. Để cho đúng mốt, áo Cát Tường phải mặc với quần sa tanh trắng, đi giày cao, cầm bóp đầm. Do xã hội vẫn còn chưa cởi mở với cách ăn mặc này nên chiếc áo không được nhiều người chấp nhận.

Năm 1943, họa sĩ Lê Phổ đã bỏ bớt những nét cứng nhắc của áo Cát Tường, đưa thêm một số yếu tố dân tộc của áo tứ thân, ngũ thân đã tạo ra kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt trước tự do bay lượn. Sự dung hòa này được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đấy, áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó và từ đấy đến nay dù trải qua bao thăng trầm, bao lần cách tân, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn được giữ nguyên.

“Áo dài phù hợp cho mọi lứa tuổi, nhưng nổi bật nhất là tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, thể hiện sự duyên dáng, quý phái,..

Với một màu trắng sang tinh khôi, thể hiện vui tươi, hồn nhiên, ngây thơ của tuổi mới lớn. Những tuổi ô mai đó không chỉ khoác lên cho mình bộ đồng phục nhà trường, mà còn khoác lên trên mình nét truyền thống của người Việt Nam, với những tà áo dài thướt tha trong gió.

Hiện nay “Áo dài” còn phổ biến trên các trường đại học, cao đẳng ví dụ như ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Công Nghệ Đồng Nai, CĐ Sư Phạm Bình Phước,..

Áo dài không chỉ dành cho học sinh, sinh viên mà còn cho giáo viên:

Áo dài Việt đã xuất hiện mọi nơi trong nền văn hóa từ truyền thống đến hiện tại và ăn sâu vào cảm thụ thẩm mĩ của người Việt. Nó tạo nên niềm tự hào của các thí sinh khi dự thi hoa hậu, trở thành biểu tượng của Việt Nam trên các chuyến bay của tiếp viên hàng không.

Ngày nay, trong thời đại mới, nền kinh tế phát triển, giao lưu văn hóa mở rộng, các giá trị thẩm mĩ ngày càng được tôn vinh. Các nhà tạo mẫu đang thổi thêm sức sống mới vào những chiếc áo dài Việt Nam trong quá trình chúng ta đang xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, áo đầm, áo thời trang thì chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và bản sắc của người Việt Nam đến với năm châu và trở thành một loại trang phục công sở xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều mảnh đất, mang cái riêng, cái truyền thống của Việt Nam không người vươn xa.

Bằng những chất liệu, màu sắc, trang trí, họa tiết khác nhau, những kiểu tao nhã hay cách điệu, cầu kỳ hay đơn giản nhưng tất cả đều tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Do được may bằng chất liệu vải mềm nên áo dài cần được bảo quản cẩn thận. Chỉ nên giặt áo dài bằng tay, giũ cho áo ráo nước và phơi ngoài nắng nhẹ, tránh nắng gắt vì áo dễ bạc màu. Dùng bàn ủi ủi với nhiệt độ thích hợp tránh nóng quá làm cháy áo. Luôn cất áo vào tủ cẩn thận giúp áo bền, đẹp và mới lâu. Nên giặt áo ngay sau khi mặc, treo bằng móc áo, nếu gấp phải gấp cẩn thận tránh làm gãy cổ áo.

Trong suốt hơn 4000 năm lịch sử, dân tộc Việt Nam gần như luôn chống nạn ngoại xâm để trường tồn và bảo vệ những giá trị về văn hóa, kỷ cương gia đình. Chiếc áo dài là một tác phẩm tuyệt vời của dân tộc. Ngoài vẻ đẹp trang nhã, thanh lịch, cách cấu trúc còn ẩn ý nghĩa dạy dỗ “đạo làm người” của các bậc tiền nhân. Chiếc áo dài còn là thành quả biểu hiện của bản sắc và tinh thần Việt Nam. Chiếc áo dài đã vượt qua mọi thử thách để trở thành “ quốc phục”- một biểu tượng của phụ nữ Việt Nam, niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
ÁO DÀI VIỆT NAM

Khi nhắc đến thời trang Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến "Áo dài", bộ trang phục truyền thống lâu đời của người dân Việt Nam. Trải qua bao thế kỉ chiếc áo dài đã có nhiều thay đổi so với tổ tiên nó trước đây. Không ai biết rõ nguồn gốc nguyên thủy của chiếc áo dài vì chưa có tài liệu ghi nhận.

Chiếc áo giao lãnh được coi là chiếc áo dài đầu tiên. Áo này cũng tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc hai tà không được buộc vào nhau. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả, cùng với váy thâm đen. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán nên khi mặc chiếc áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân với hai tà trước được thả nay cột gọn gàng mặc cùng váy xắn quai cồng tiện việc lao động.

Đối với phụ nữ n ông dân áo tứ thân được mặc rất đơn giản với áo yếm ở trong, áo ngoài cột tà và thắt lưng. Mặc kèm với áo thường là chiếc khăn mỏ quạ đen tuyền. Trong khi đó, áo tứ thân dành cho tầng lớp quý tộc lại rất nhiều chi tiết. Mặc ngoài cùng là chiếc áo the thâm màu nâu non, chiếc áo thứ hai màu mỡ gà, chiếc áo thứ ba màu cánh sen. Khi mặc thường không cài kín cổ, để lộ ba màu áo. Bên trong mặc chiếc yếm màu đỏ thắm. Thắt lưng lụa màu hồng đào hoặc thiên lý. Áo mặc với váy màu đen, đầu đội nón quai thao càng làm tăng thêm nét duyên dáng của người phụ nữ. Nhưng sau một thời gian áo tứ thân được cách tân để giảm chế nét dân dã lao động và tăng dáng dấp sang trọng khuê các. Thế là chiếc áo ngũ thân ra đời. Áo ngũ thân được cải tiến ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu và vạt con nằm dưới vạt trước tượng trưng cho người mặc. Năm hột nút nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo được ngay thẳng, kín đáo tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Nhưng đến thời Pháp thuộc, chiếc áo đài lại một lần nữa thay đổi. "Lemur" là tên tiếng Pháp để chỉ chiếc áo dài cách tân. Chiếc áo dài này do người họa sĩ có tên là Cát Tường sáng tạo ra. Bốn vạt trước và sau thu gọn thành hai tà trước sau. Vạt trước dài chấm đất tăng thêm sự duyên dáng và uyển chuyển. Hàng nút phía trước của áo được chuyển dọc qua hai vai và chạy dọc một bên sườn. Áo may ráp vai, tay phồng, cổ bồng hoặc hở. Để cho đúng mốt, áo Cát Tường phải mặc với quần sa tanh trắng, đi giày cao, cầm bóp đầm. Do xã hội vẫn còn chưa cởi mở với cách ăn mặc này nên chiếc áo không được nhiều người chấp nhận.

Năm 1943, họa sĩ Lê Phổ đã bỏ bớt những nét cứng nhắc của áo Cát Tường, đưa thêm một số yếu tố dân tộc của áo tứ thân, ngũ thân đã tạo ra kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt trước tự do bay lượn. Sự dung hòa này được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đấy, áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó và từ đấy đến nay dù trải qua bao thăng trầm, bao lần cách tân, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn được giữ nguyên.

"Áo dài phù hợp cho mọi lứa tuổi, nhưng nổi bật nhất là tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, thể hiện sự duyên dáng, quý phái,..

Với một màu trắng sang tinh khôi, thể hiện vui tươi, hồn nhiên, ngây thơ của tuổi mới lớn. Những tuổi ô mai đó không chỉ khoác lên cho mình bộ đồng phục nhà trường, mà còn khoác lên trên mình nét truyền thống của người Việt Nam, với những tà áo dài thướt tha trong gió.

Hiện nay "Áo dài" còn phổ biến trên các trường đại học, cao đẳng ví dụ như ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Công Nghệ Đồng Nai, CĐ Sư Phạm Bình Phước,..

Áo dài không chỉ dành cho học sinh, sinh viên mà còn cho giáo viên:

Áo dài Việt đã xuất hiện mọi nơi trong nền văn hóa từ truyền thống đến hiện tại và ăn sâu vào cảm thụ thẩm mĩ của người Việt. Nó tạo nên niềm tự hào của các thí sinh khi dự thi hoa hậu, trở thành biểu tượng của Việt Nam trên các chuyến bay của tiếp viên hàng không.

Ngày nay, trong thời đại mới, nền kinh tế phát triển , giao lưu văn hóa mở rộng, các giá trị thẩm mĩ ngày càng được tôn vinh. Các nhà tạo mẫu đang thổi thêm sức sống mới vào những chiếc áo dài Việt Nam trong quá trình chúng ta đang xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, áo đầm, áo thời trang thì chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và bản sắc của người Việt Nam đến với năm châu và trở thành một loại trang phục công sở xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều mảnh đất, mang cái riêng, cái truyền thống của Việt Nam không người vư ơn xa.

Bằng những chất liệu, màu sắc, trang trí, họa tiết khác nhau, những kiểu tao nhã hay cách điệu, cầu kỳ hay đơn giản nhưng tất cả đều tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Do được may bằng chất liệu vải mềm nên áo dài cần được bảo quản cẩn thận. Chỉ nên giặt áo dài bằng tay, giũ cho áo ráo nước và phơi ngoài nắng nhẹ, tránh nắng gắt vì áo dễ bạc màu. Dùng bàn ủi ủi với nhiệt độ thích hợp tránh nóng quá làm cháy áo. Luôn cất áo vào tủ cẩn thận giúp áo bền, đẹp và mới lâu. Nên giặt áo ngay sau khi mặc, treo bằng móc áo, nếu gấp phải gấp cẩn thận tránh làm gãy cổ áo.

Trong suốt hơn 4000 năm lịch sử, dân tộc Việt Nam gần như luôn chống nạn ngoại xâm để trường tồn và bảo vệ những giá trị về văn hóa, kỷ cương gia đình. Chiếc áo dài là một tác phẩm tuyệt vời của dân tộc. Ngoài vẻ đẹp trang nhã, thanh lịch, cách cấu trúc còn ẩn ý nghĩa dạy dỗ "đạo làm người" của các bậc tiền nhân. Chiếc áo dài còn là thành quả biểu hiện của bản sắc và tinh thần Việt Nam. Chiếc áo dài đã vượt qua mọi thử thách để trở thành " quốc phục"- một biểu tượng của phụ nữ Việt Nam, niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Anh) 2:[Sao chép]
Sao chép!
ÁO DÀI VIỆT NAM

Khi nhắc đến thời trang Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến “Áo dài”, bộ trang phục truyền thống lâu đời của người dân Việt Nam. Trải qua bao thế kỉ chiếc áo dài đã có nhiều thay đổi so với tổ tiên nó trước đây. Không ai biết rõ nguồn gốc nguyên thủy của chiếc áo dài vì chưa có tài liệu ghi nhận.

Chiếc áo giao lãnh được coi là chiếc áo dài đầu tiên. Áo này cũng tương tự như áo tứ thân nhưng khi mặc hai tà không được buộc vào nhau. Áo mặc phủ ngoài yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả, cùng với váy thâm đen. Vì phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán nên khi mặc chiếc áo giao lãnh được thu gọn thành áo tứ thân với hai tà trước được thả nay cột gọn gàng mặc cùng váy xắn quai cồng tiện việc lao động.

Đối với phụ nữ nông dân áo tứ thân được mặc rất đơn giản với áo yếm ở trong, áo ngoài cột tà và thắt lưng. Mặc kèm với áo thường là chiếc khăn mỏ quạ đen tuyền. Trong khi đó, áo tứ thân dành cho tầng lớp quý tộc lại rất nhiều chi tiết. Mặc ngoài cùng là chiếc áo the thâm màu nâu non, chiếc áo thứ hai màu mỡ gà, chiếc áo thứ ba màu cánh sen. Khi mặc thường không cài kín cổ, để lộ ba màu áo. Bên trong mặc chiếc yếm màu đỏ thắm. Thắt lưng lụa màu hồng đào hoặc thiên lý. Áo mặc với váy màu đen, đầu đội nón quai thao càng làm tăng thêm nét duyên dáng của người phụ nữ. Nhưng sau một thời gian áo tứ thân được cách tân để giảm chế nét dân dã lao động và tăng dáng dấp sang trọng khuê các. Thế là chiếc áo ngũ thân ra đời. Áo ngũ thân được cải tiến ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu và vạt con nằm dưới vạt trước tượng trưng cho người mặc. Năm hột nút nằm cân xứng trên năm vị trí cố định, giữ cho chiếc áo được ngay thẳng, kín đáo tượng trưng cho năm đạo làm người: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Nhưng đến thời Pháp thuộc, chiếc áo đài lại một lần nữa thay đổi. “Lemur” là tên tiếng Pháp để chỉ chiếc áo dài cách tân. Chiếc áo dài này do người họa sĩ có tên là Cát Tường sáng tạo ra. Bốn vạt trước và sau thu gọn thành hai tà trước sau. Vạt trước dài chấm đất tăng thêm sự duyên dáng và uyển chuyển. Hàng nút phía trước của áo được chuyển dọc qua hai vai và chạy dọc một bên sườn. Áo may ráp vai, tay phồng, cổ bồng hoặc hở. Để cho đúng mốt, áo Cát Tường phải mặc với quần sa tanh trắng, đi giày cao, cầm bóp đầm. Do xã hội vẫn còn chưa cởi mở với cách ăn mặc này nên chiếc áo không được nhiều người chấp nhận.

Năm 1943, họa sĩ Lê Phổ đã bỏ bớt những nét cứng nhắc của áo Cát Tường, đưa thêm một số yếu tố dân tộc của áo tứ thân, ngũ thân đã tạo ra kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt trước tự do bay lượn. Sự dung hòa này được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đấy, áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó và từ đấy đến nay dù trải qua bao thăng trầm, bao lần cách tân, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn được giữ nguyên.

“Áo dài phù hợp cho mọi lứa tuổi, nhưng nổi bật nhất là tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, thể hiện sự duyên dáng, quý phái,..

Với một màu trắng sang tinh khôi, thể hiện vui tươi, hồn nhiên, ngây thơ của tuổi mới lớn. Những tuổi ô mai đó không chỉ khoác lên cho mình bộ đồng phục nhà trường, mà còn khoác lên trên mình nét truyền thống của người Việt Nam, với những tà áo dài thướt tha trong gió.

Hiện nay “Áo dài” còn phổ biến trên các trường đại học, cao đẳng ví dụ như ĐH Tôn Đức Thắng, ĐH Công Nghệ Đồng Nai, CĐ Sư Phạm Bình Phước,..

Áo dài không chỉ dành cho học sinh, sinh viên mà còn cho giáo viên:

Áo dài Việt đã xuất hiện mọi nơi trong nền văn hóa từ truyền thống đến hiện tại và ăn sâu vào cảm thụ thẩm mĩ của người Việt. Nó tạo nên niềm tự hào của các thí sinh khi dự thi hoa hậu, trở thành biểu tượng của Việt Nam trên các chuyến bay của tiếp viên hàng không.

Ngày nay, trong thời đại mới, nền kinh tế phát triển, giao lưu văn hóa mở rộng, các giá trị thẩm mĩ ngày càng được tôn vinh. Các nhà tạo mẫu đang thổi thêm sức sống mới vào những chiếc áo dài Việt Nam trong quá trình chúng ta đang xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Trong muôn vàn sự cách tân về trang phục, áo đầm, áo thời trang thì chiếc áo dài Việt Nam vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc, mang theo phong cách và bản sắc của người Việt Nam đến với năm châu và trở thành một loại trang phục công sở xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều mảnh đất, mang cái riêng, cái truyền thống của Việt Nam không người vươn xa.

Bằng những chất liệu, màu sắc, trang trí, họa tiết khác nhau, những kiểu tao nhã hay cách điệu, cầu kỳ hay đơn giản nhưng tất cả đều tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Do được may bằng chất liệu vải mềm nên áo dài cần được bảo quản cẩn thận. Chỉ nên giặt áo dài bằng tay, giũ cho áo ráo nước và phơi ngoài nắng nhẹ, tránh nắng gắt vì áo dễ bạc màu. Dùng bàn ủi ủi với nhiệt độ thích hợp tránh nóng quá làm cháy áo. Luôn cất áo vào tủ cẩn thận giúp áo bền, đẹp và mới lâu. Nên giặt áo ngay sau khi mặc, treo bằng móc áo, nếu gấp phải gấp cẩn thận tránh làm gãy cổ áo.

Trong suốt hơn 4000 năm lịch sử, dân tộc Việt Nam gần như luôn chống nạn ngoại xâm để trường tồn và bảo vệ những giá trị về văn hóa, kỷ cương gia đình. Chiếc áo dài là một tác phẩm tuyệt vời của dân tộc. Ngoài vẻ đẹp trang nhã, thanh lịch, cách cấu trúc còn ẩn ý nghĩa dạy dỗ “đạo làm người” của các bậc tiền nhân. Chiếc áo dài còn là thành quả biểu hiện của bản sắc và tinh thần Việt Nam. Chiếc áo dài đã vượt qua mọi thử thách để trở thành “ quốc phục”- một biểu tượng của phụ nữ Việt Nam, niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Anh) 3:[Sao chép]
Sao chép!
Á O D I VI T NAM

Khi NH C n th I Trang Vi ệ t Nam, CH ú ng TA KH ô ng th KH ô ng NH C "n Á o d à I", B Trang C truy PH ng l â n th u i c a ng i d â n Vi ệ t Nam. Tr I qua Bao th K Chi C á o d à I ã C ó NHI u thay I so v i t Ti ê n n ó tr â y. C Kh ô ng AI bi t r NGU n narrow nguy ê n th G C Y C a Chi C á o d à I V ì ch a C ó t à I Li ệ u GHI NH n.

Chi C á o GIAO L ã NH C COI L à Chi C á o d à I ầ u Ti ê n. Á o n à Y C ng t ng t NH á o t th â n NH ng khi M C Hai t à KH C ô ng C V à o nhau. Bu Á o m c PH NGO à I Y M L ó T, V á y t en, th t l ng m à u Bu ô ng th, C ù ng V I V á y th â m enV ì PH I L à m VI ệ C ng á ng C Bu ô n ho B á n n ê n khi M C Chi C á o GIAO L ã NH C Thu g n th à NH á o t th â n V I Hai t the tr à C C th nay C T g n g à ng M C C ù ng V á y x n Quai C ng Ti ệ n VI ệ C Lao ng.

DJ I V I PH n n ô ng D â n o á t th â n c m c r t n GI n V I á o y m trong, á o NGO à I c t t à V à th t l ngM c k è m v I á o th ng l à Chi C KH n m Qu en Tuy n. Trong khi ó, O á t th â n d à NH Cho t ầ ng l p Qu ý T c l i r t NHI u Chi Ti t. M C NGO à I C ù ng l à Chi C á o the th â m m à U N â u non, Chi C á o th Hai m à u m g à Chi, C á o th Ba m à u c Sen. Khi á NH M C th ng KH ô ng C à I K í n C, l Ba m à u á o. B ê n Trong M C Chi C Y M M à u th M.Th t l ng l a m à u h ng à o ho C thi ê n l ý. Á o m c v I V á Y M à u en, ầ u i n ó n Quai Thao C à ng l à m t ng th ê m n é t duy ê n d á ng C a ng i PH n. Nh ng Sau m t th I Gian á o t th â n c c á ch t â n GI m ch n é T D â n d ã Lao ng V à t ng D á ng D P sang tr ng Khu ê C á C. Th L à Chi C á o ng th â n RA I.Á o ng th â n c c i ti n ch V T n a tr C PH I nay C Thu B é th à NH V T con; th ê m m T V T th m be n B é n m d I V T tr C. Á o Che K í n th â n h ì NH KH ô ng h á o l ó t. M I V T C ó Hai th â n n i s ng t ng tr ng Cho t th â n m PH U V à V T con n m d I V T tr c t ng tr ng Cho ng i m C.N m h t n ú T N M C â n x ng tr ê n n m V tr í C NH, GI Cho Chi C á o C ngay th ng, K í n á o t ng tr ng Cho n m o l à m ng i: Nh â n, L, Ngh a, Tr í, T í n. Nh ng n th I Ph á P Thu C, Chi C á o à I l i m t l ầ n n a thay I. "Lemur" L à t ê n ti ng Ph á P ch C á o Chi D à I C á ch t â n. Chi C á o D à i n à y do ng i h a s C ó t ê n l à C á t T ng s á ng t o raB n V T tr C V à Sau Thu g n th à NH Hai t à tr C sau. V t tr C D à I ch m t t ng th ê m s duy ê n d á ng V à uy n CHUY n. H à ng n ú t PH í a tr c c a á o C CHUY n d c qua Hai VAI V à ch y d c m t B ê n s n. Á o may R á P VAI, Tay ng PH, C B ng ho C H. DJ CHO ú ng M T, á o C á t T ng PH I m c v I Qu ầ n SA tanh ng TR, I GI à y Cao, C ầ M B ó P ầ M.Do x ã h i v n C ò n ch a C I m v I C á ch n m c n à y n ê n Chi C á o KH ô ng C NHI u ng i ch P NH n.

N m 1943, the h a s L ê Ph ã b b t NH ng n é t C ng NH c c a á o C á t T ng, a th ê m m T S Y U T D â N T c c a á o t th â n, ng th â n ã t o RA u á o v ki T D à I c k í NH ô m s á t, th â n ng i, Trong khi Hai V T tr c t do Bay l n.S dung h ò a n à Y C GI i n th I ó Hoan NGH ê NH NHI ệ t Li ệ t. T y, O á D à I Vi ệ t Nam ã t ì M C H ì NH h à I Chu n m c c a n ó V à t y n nay D tr I qua Bao th ng tr ầ m, Bao L ầ n C á ch t â n, H NH D ng Chi C á o d à I V C B N v n c GI nguy ê n.

"Á o d à I h p Cho m PH I l a Tu I NH, ng n I B t NH t l à t ô n Vinh V P C a ng i PH n Vi ệ t Nam,Th hi ệ n s duy ê n d á ng, Qu ý PH á I,..

V I m t m à u tr ng sang tinh KH ô I, th hi ệ n VUI t I, H n NHI ê n, ng â y th C a Tu I m i l n. Nh ng Tu I ô Mai ó KH ô ng ch Kho á C L ê n Cho m NH B ng PH C NH à tr ng, m à C ò n Kho á C L ê n tr ê n m NH n é t ì truy n th ng C a ng i Vi ệ t Nam, V I NH ng t à á o d à I th t tha Trong GI óHi ệ n nay "Á o d à I" C ò n PH Bi n tr ê n C á C tr ng i h C, Cao ng V í D NH DJ H T ô n c ng Th DJ, DJ H C ô ng Ngh ng Nai C ệ DJ, DJ S Ph m B ì NH Ph C. C Á o d à I, KH ô ng ch D à NH Cho H C Sinh, Sinh VI ê n m à C ò n Cho GI á o VI ê n:

Á o d à I Vi ệ t ã Xu t hi ệ n m i n I Trong n n v n h ó a t truy n th ng n hi ệ n t I V à n s â U V à o C M th th m m c a ng i Vi ệ t.N ó t o n ê n Ni m t h à o c c á C a th í Sinh khi D thi HOA H u, TR th à NH Bi u t ng C a Vi ệ t Nam tr ê n C á C CHUY n Bay C a Ti P VI ê n h à ng KH ô ng.

Ng à y nay, Trong th I I m I, n n Kinh t PH á t tri n, GIAO l u v n h ó a m r ng, C á C GI á tr th m m ng à Y C à ng c t ô n VinhC á C NH à t o m u ang th I th ê m s c s ng m i v à o NH ng Chi C á o d à I Vi ệ t Nam Trong Qu á tr ì NH ch ú ng TA ang x â y d ng n n v n h ó a Vi ệ t Nam Ti ê n Ti n, m à B N S C D â n c.

Trong mu ô n t v à n s C á ch t â n V Trang PH C á o ầ m,, O á th I Trang th ì Chi C á o d à I Vi ệ t Nam v n Chi m c t ô n v b n s C D â n t c,Mang Theo Phong C á ch V à b n s c c a ng i Vi ệ t Nam n v i n m ch â U V à tr th à NH m t Lo I Trang PH C C ô ng s Xu t hi ệ n NHI U N I, NHI u m NH T, mang C á I RI ê ng, C á I truy n th ng C a Vi ệ t Nam KH ô ng ng i v n xa.

B ng NH ng ch t Li ệ u, m à U S C, Trang TR, h a Ti, t KH á C nhau, NH ng ki u Tao NH ã hay C á ch i ệ u,C ầ U K hay n GI n NH ng T T c u t ô n Vinh V P C a ng i PH n Vi ệ t Nam.

Do C may b ng ch t Li ệ U V I m m n ê n á o d à I C ầ n c b o Qu n c n th n. Ch n ê n GI t á o d à I B ng tay, GI CHO á o r á o n c v à PH I NGO à i n ng NH, tr á NH n ng g t v á o d b c m à U. D ù ng B à n I I V I NHI ệ t th í ch h tr á NH P n ó ng Qu á L à m ch á y á o.Lu ô n c t á o v à o t c n th n GI ú P á o b n, P V à m i l â U. N ê n GI t á o ngay Sau khi M C Treo B, ng m ó C á o, n u G P PH I G P C n th n tr á NH L à m g ã Y C á o.

Trong Su t h n 4000 n m l d â n ch s, T C Vi t Nam ệ g ầ n NH Lu ô n ch ng n n NGO I x â m tr ng t n V à b o v ệ NH ng GI á tr v v n h ó a, K C ng GIA ì NHChi C á o d à I L à m t t á C PH m Tuy ệ T V I c a D â n C. Ngo à I V T P Trang NH ã, Thanh l ch, C á ch c u tr ú C C ò n n ý NGH a d y d "O L à M ng i" C a C á C B C Ti n NH â n. Chi C á o d à I C ò n l è th à NH Qu Bi u hi ệ n c a B N S C V à tinh th ầ n Vi ệ t Nam. C á o Chi D à I ã V T qua M I th th á ch tr th à NH "Qu C C PH" - M T Bi u t ng C a n PH Vi ệ t Nam,Ni m ki ê u h ã NH C a D â N T C Vi ệ t Nam
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: